Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế

01/02/2004

Lê Thị Thu Thủ, TS. Khoa Luật

Đại học Quốc gia Hà Nội

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, các quan hệ kinh tế ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp. Nhiều quan hệ kinh tế truyền thống, quan hệ kinh tế hợp đồng cũng mang những diện mạo, sắc thái mới. Tương ứng với sự đa dạng, phong phú của các quan hệ kinh tế này, các tranh chấp kinh tế cũng ngày càng muôn màu, muôn vẻ và với số lượng tương đối lớn. Các tranh chấp kinh tế xảy ra trong một loạt các lĩnh vực như chứng khoán, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ… cho đến nay chưa được pháp luật quy định cụ thể, dẫn đến việc giải quyết trên thực tế là rất khó khăn. Chính vì vậy, Toà án có vai trò vô cùng quan trọng. Đặc biệt, trong Nhà nước pháp quyền, hoạt động xét xử của  toà án phải công minh, nhanh chóng, chính xác và kịp thời, tránh tình trạng để tồn đọng án, giải quyết án kéo dài, dễ gây phiền hà, mệt mỏi cho các bên đương sự. Vấn đề này đã đặt ra yêu cầu phải có sự đổi mới trong hoạt động xét xử của các Toà án nói chung, Toà kinh tế nói riêng và phải cải cách về pháp luật tố tụng (trong đó đặc biệt là pháp luật về thẩm quyền của Toà án), bởi lẽ, pháp luật nội dung trong thời gian qua ở nước ta đã có nhiều bước tiến đáng kể theo hướng văn minh, hiện đại . Đây cũng là định 1 hướng cải cách tư pháp của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay . Việc xác định thẩm 2 quyền giải quyết tranh chấp kinh tế của Toà án có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thụ lý, chuẩn bị hồ sơ và giải quyết tranh chấp cũng như việc thi hành quyết định, bản án của Toà án
Khái niệm tranh chấp kinh tế
 Trên thực tế, việc xác định thế nào là tranh chấp kinh tế có ảnh hưởng lớn đến thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp này. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, một trong những công việc đầu tiên mà Toà án cần làm là xem xét tranh chấp đó có thuộc thẩm quyền của mình để thụ lý hay không. Trong khoa học pháp lý, khái niệm “tranh chấp kinh tế” có thể được tiếp cận ở các góc độ khác nhau từ góc độ pháp luật nội dung, hoặc từ góc độ pháp luật tố tụng. Trong khoa học pháp lý Việt Nam, thuật ngữ “tranh chấp kinh tế” được sử dụng khá phổ biến, tuy nhiên, bên cạnh thuật ngữ này còn có các thuật ngữ như “tranh chấp thương mại”“tranh chấp kinh doanh”“tranh chấp hợp đồng kinh tế”. Có quan điểm cho rằng, tranh chấp kinh tế trong kinh doanh phần nào có sự khác biệt với tranh chấp kinh tế nói chung, bởi lẽ khái niệm “kinh tế” cũng như “quan hệ kinh tế” thông thường được hiểu rộng hơn khái niệm “kinh doanh” , “quan hệ kinh doanh”. Kinh doanh chỉ là hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và mang tính nghề nghiệp như sản xuất, buôn bán, dịch vụ… trong khi đó, kinh tế có sự bao hàm cả yếu tố quản lý và yếu tố chính trị khác. Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh cũng có những nét đặc thù so với giải quyết tranh chấp kinh tế . 3  Khác với quan điểm nêu trên, một số tác giả lại đồng nghĩa “tranh chấp kinh tế” với “tranh chấp kinh doanh” 4 hoặc cho rằng tranh chấp kinh tế là tranh chấp phát sinh từ vi phạm hợp đồng kinh tế . 5 Dưới góc độ pháp luật nội dung,tranh chấp kinh tế là những tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế được điều chỉnh bởi pháp luật kinh tế. Tuy nhiên, với khái niệm tranh chấp kinh tế như vậy khó có thể cho phép phân biệt được với các loại tranh chấp tài sản khác như tranh chấp dân sự, thương mại vì nội hàm của nó quá rộng. Dưới góc độ pháp luật tố tụng hiện hành ở Việt Nam hiện nay , tranh chấp kinh tế bao gồm những tranh chấp về hợp đồng kinh tế, tranh chấp phát sinh trong nội bộ công ty, trong hoạt động kinh doanh, mua bán cổ phiếu, trái phiếu. Có thể nói cách tiếp cận này có phạm vi nội hàm hẹp nên không thể bao quát hết các tranh chấp đã và đang phát sinh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Trên thế giới, khái niệm tranh chấp kinh tế không được thể hiện trong pháp luật nội dung cũng như pháp luật hình thức và không có sự phân biệt giữa tranh chấp kinh tế và tranh chấp dân sự. Có chăng chỉ là có sự phân biệt giữa tranh chấp thương mại và tranh chấp dân sự . 6 Theo chúng tôi, tranh chấp kinh tế cần được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh tế liên quan đến lợi ích kinh tế trong quá trình hoạt động kinh tế. Tranh chấp kinh tế là hệ quả phát sinh từ các quan hệ kinh tế ư các quan hệ có tính chất tài sản với mục đích kinh doanh, kiếm lời. Tính chất, đặc điểm của các tranh chấp kinh tế bị chi phối bởi tính chất, nội dung của các quan hệ kinh tế. Hay nói cách khác, cơ sở phát sinh của các tranh chấp kinh tế là các hoạt động kinh tế giữa các chủ thể. Khi tham gia các quan hệ kinh tế, các chủ thể đều hướng tới một mục đích cao nhất là lợi nhuận, lợi ích kinh tế. Do vậy, sự vi phạm về quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ dẫn tới hệ quả là một bên nào đó đã bị gây thiệt hại về quyền lợi kinh tế, theo đó tranh chấp kinh tế sẽ phát sinh. Các tranh chấp kinh tế có thể phát sinh trong cả quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, từ khâu đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Các tranh chấp này thường ảnh hưởng đến không những quyền lợi của các bên tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của cả cộng đồng kinh doanh. Đây chính là tính phản ứng dây chuyền của tranh chấp kinh tế và do vậy nếu nó không được giải quyết một cách khoa học, bảo đảm quyền lợi của các bên trong quan hệ tranh chấp thì có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế của Toà kinh tế
 Pháp luật tố tụng xác định “tranh chấp kinh tế” qua việc quy định thẩm quyền xét xử cho Toà kinh tế. Theo Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế sau đây: ư Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh;  ư Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; ư Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu; ư Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, khái niệm “tranh chấp kinh tế” theo pháp luật Việt Nam chỉ được đưa ra theo phương pháp liệt kê. Phương pháp này có ưu điểm là tạo ra sự rõ ràng, dễ hiểu và dễ áp dụng nhưng lại không mang tính khái quát, bởi lẽ “các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật” ở đây là những tranh chấp nào? Chúng ta hiểu đây là những tranh chấp mà trong quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước sẽ có thể phát sinh, sẽ được pháp luật quy định và giải quyết. Đây là điều luật “mở” , mang tính dự phòng, nhưng trong thực tế đã gây nhiều tranh cãi trong việc xác định thẩm quyền của Toà án. Các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh tế “muôn hình vạn trạng” , các nhà lập pháp không thể liệt kê hết các tranh chấp kinh tế. Mặt khác, Điều 12, khoản 1 của Pháp lệnh nêu trên chỉ quy định Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể là pháp nhân với nhau hoặc giữa pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh, do đó chưa bao hàm hết những chủ thể đã được Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định. Ví dụ, Điều 42 của Pháp lệnh này có ghi: “Các quy định của Pháp lệnh này có thể áp dụng trong việc ký kết hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể”. Xuất phát từ khái niệm nêu trên về “tranh chấp kinh tế”, theo tôi, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế không nên quy định quá cụ thể về loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế, mà chỉ nên quy định khái quát: “các tranh chấp về hợp đồng kinh tế”, còn khái niệm hợp đồng kinh tế là gì thì đã có luật nội dung quy định. Như vậy vừa đơn giản mà lại không bị bỏ sót, không phụ thuộc vào sự thay đổi của luật nội dung ư Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Đối với việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế mới chỉ dừng lại ở các quy định mang tính nguyên tắc mà chưa có các quy định cụ thể để giải quyết. Việc Pháp lệnh trên quy định việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu thuộc loại tranh chấp kinh tế và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà kinh tế là chưa đầy đủ và hợp lý vì trong lĩnh vực chứng khoán có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh như tranh chấp về quyền sở hữu, về thủ tục phát hành, về niêm yết chứng khoán, về giám sát hoạt động phát hành…và liệu tranh chấp về việc chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán có phải là tranh chấp kinh tế hay không?. Chính vì vậy, cần quy định các tranh chấp nào phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán là tranh chấp kinh tế và việc giải quyết các tranh chấp này đương nhiên sẽ theo các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế của Toà án nhân dân cấp huyện Theo quy định tại Điều 13, khoản 1, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Toà án cấp huyện được giải quyết theo thủ tục sơ  thẩm những tranh chấp về hợp đồng kinh tế mà giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng. Còn những tranh chấp khác (như tranh chấp về chứng khoán, quảng cáo, tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài…) thì không thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, qua tổng kết các tranh chấp kinh tế mà Toà án nhân dân giải quyết trong những năm vừa qua cho thấy, hầu hết giá trị tranh chấp đều trên 50 triệu. Nếu loại vụ án có giá trị tranh chấp dưới 50 triệu thì thông thường các bên tranh chấp cũng tự thoả thuận được với nhau về cách giải quyết. Do vậy, trong tố tụng kinh tế, hầu hết các tranh chấp đều thuộc thẩm quyền xét xử của toà án cấp tỉnh. Điều này có sự khác biệt với tố tụng dân sự, theo đó hầu hết các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền xét xử của toà án cấp huyện. Vậy, một vấn đề đặt ra là: liệu tranh chấp kinh tế có phức tạp hơn tranh chấp dân sự không và vì sao đối với tranh chấp dân sự, toà án cấp huyện có thể giải quyết những vụ có giá trị tranh chấp đến hàng tỷ đồng, còn đối với các tranh chấp kinh tế thì lại không được giải quyết những vụ có giá trị tranh chấp hơn 50 triệu đồng? Hơn nữa, ở đa số các quốc gia trên thế giới không có sự phân biệt rạch ròi giữa tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh tế, vì theo họ, tranh chấp trong kinh doanh về bản chất là một dạng của tranh chấp dân sự . Vì vậy, việc 7 quy định toà án cấp huyện chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế với giá trị nhỏ hơn 50 triệu đồng là không phù hợp, làm hạn chế số vụ việc thuộc thẩm quyền của toà án cấp huyện. Quy định này đòi hỏi phải phân định lại một cách hợp lý thẩm quyền của Toà án nhân dân các cấp trong việc giải quyết  tranh chấp kinh tế, tiến tới thực hiện nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp huyện, Toà án nhân dân cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, Toà án nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các Toà án áp dụng thống nhất pháp luật như đã nêu trong các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp . Việc tăng thẩm quyền của toà 8 án cấp huyện trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế còn được lý giải bởi sự không ngừng nâng cao về trình độ của đội ngũ thẩm phán của toà án. Do vậy, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế cần quy định rõ về vấn đề này và đồng thời có quy định rõ ràng cụ thể về giá trị tranh chấp để phát huy vai trò của toà án cấp cơ sở trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế.
 Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn
 Điều 14, Điều 15 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, nhưng không quy định rõ nguyên tắc nào được ưu tiên trước, dẫn tới trường hợp có vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều toà án, từ đó phát sinh việc tranh chấp về thẩm quyền giữa các toà án. Điều này dẫn tới một câu hỏi là trong trường hợp khi ký kết mà các bên thoả thuận trong hợp đồng là sẽ yêu cầu toà án cụ thể nào đó giải quyết thì liệu toà án này có thẩm quyền giải quyết hay không? Để trả lời, trong thực tế có nhiều cách giải quyết khác nhau. Ví dụ, trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng kinh tế, nguyên đơn có trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh, bị đơn có trụ sở tại Hà Nội, hai bên đã thoả thuận trong hợp đồng là Toà  kinh tế Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh sẽ giải quyết tranh chấp. Khi phát sinh tranh chấp, nguyên đơn đã khởi kiện đến Toà án thành phố Hồ Chí Minh và toà này đã thụ lý vụ án, nhưng bị đơn lại cho rằng Toà án Hà Nội mới có thẩm quyền giải quyết vì đó là nơi bị đơn có trụ sở; vì vậy, sau khi hoà giải không thành, toà án thành phố Hồ Chí Minh đã phải chuyển cho Toà án thành phố Hà Nội giải quyết. Theo tôi, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế cần quy định thêm trường hợp khi các bên ký kết hợp đồng thoả thuận tranh chấp phát sinh sẽ do một toà án cụ thể giải quyết, thì Toà án đó có thẩm quyền giải quyết vụ án, không phụ thuộc vào thẩm quyền theo lãnh thổ. Quy định như vậy dễ thực hiện và bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự khi tham gia vào các giao dịch. Bởi lẽ, trong nền kinh tế thị trường, nền tảng của các quan hệ kinh tế là quyền tự do kinh doanh, trong đó có quyền tự định đoạt việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Pháp luật cũng nên thừa nhận và bảo vệ sự thoả thuận của các bên về việc lựa chọn một toà án thích hợp trong trường hợp quy định tại Điều 15 Pháp lệnh. Nếu các bên đã có thoả thuận về một toà án cụ thể để giải quyết tranh chấp thì nguyên đơn chỉ có quyền nộp đơn kiện tại toà án đó nếu toà án này có đủ thẩm quyền giải quyết vụ kiện theo quy định của pháp luật. Chỉ như vậy, việc giải quyết tranh chấp kinh tế mới đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của nền kinh tế thị trường. Một vấn đề cần quan tâm là trong Điều 15, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định: “nếu vụ án phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế thì nguyên đơn có thể yêu cầu toà án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết vụ án”. Vậy quan niệm “nơi thực hiện hợp đồng” là nơi nào để xác định toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án cũng cần được làm rõ. Bởi lẽ, trong rất nhiều trường hợp, nơi thực hiện hợp đồng không thể xác định được. Ví dụ, trong hợp đồng đã xác định nơi thực hiện hợp đồng, nhưng khi chưa thực hiện thì đã phát sinh tranh chấp. Theo quan điểm của chúng tôi, việc xác định nơi thực hiện hợp đồng phải căn cứ vào nơi các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ đã cam kết mà ở đó phát hiện có vi phạm và dẫn tới tranh chấp. Điều 16, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế còn quy định việc chuyển hồ sơ vụ án cho toà án có thẩm quyền ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình. Quy định này là quá chung chung, khó áp dụng trong thực tế. Do vậy, cần quy định rõ hơn thủ tục chuyển vụ án trong trường hợp chuyển vụ án từ toà án cấp dưới lên toà án cấp trên và ngược lại, chuyển vụ án từ tỉnh này sang tỉnh khác… Nếu vụ án đã đưa ra xét xử mới phát hiện không đúng thẩm quyền thì thủ tục giải quyết sẽ như thế nào? Chúng tôi cho rằng, pháp luật cần có quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các toà án. Mặt khác, việc quy định như pháp luật hiện hành là chưa phù hợp vì khi nguyên đơn khởi kiện đến một toà án để yêu cầu giải quyết tranh chấp, điều này có nghĩa là đã có sự lựa chọn toà án, đã nộp tiền tạm ứng án phí, còn việc toà án thụ lý vụ án không thuộc thẩm quyền của mình là do lỗi của toà án chứ không phải lỗi của nguyên đơn. Vì vậy, trước khi toà án chuyển vụ án cho toà án khác, phải thông báo cho nguyên đơn, nếu nguyên đơn không chấp nhận thì phải trả lại đơn và tiền tạm ứng án phí để nguyên đơn được tự quyết định cách thức giải quyết tranh chấp của mình. Vì những lý do đó, Điều 16, khoản  1 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế cần phải được sửa đổi bổ sung theo hướng toà án đã thụ lý vụ án phải chuyển hồ sơ vụ án cho toà án có thẩm quyền ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình và sau khi đã thông báo cho nguyên đơn mà nguyên đơn không phản đối. * * * Trên đây là một số vấn đề liên quan đến thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam. Trong bối cảnh Việt Nam đã và đang tham gia ngày càng sâu, rộng vào các quá trình kinh tế, khu vực và trên thế giới, đặc biệt là Việt Nam đã ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam ư Hoa Kỳ và chuẩn bị gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), việc sửa đổi, bổ sung khung pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế (trong đó có pháp luật về thẩm quyền của toà án) là một nhu cầu bức xúc, nhằm bảo đảm việc giải quyết các tranh chấp một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả, bảo vệ một cách hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra trong tình hình mới./.