Bảo hộ pháp lý quyền tác giả

01/12/2002

Kiều Thị Thanh** Trờng Đại học Luật Hà Nội

 
Lợc sử bảo hộ quyền tác giả
 
Bảo hộ pháp lý về quyền tác giả có từ rất sớm ở nhiều nớc trên thế giới. Hình thức khởi thuỷ của sự bảo hộ bản quyền ở Anh là việc cấp giấy phép Hoàng gia cho các chủ xởng in có từ khoảng đầu thế kỷ XVI. Giấy phép này đợc cấp vừa có mục tiêu bảo hộ độc quyền in sách cho các chủ xởng in nhất định chống lại các chủ xởng in khác không có giấy phép, lại vừa làm tăng thêm một khoản tiền đáng kể cho ngân quỹ của nhà cầm quyền vì chủ xởng in muốn đợc cấp giấy phép thì phải nộp một khoản lệ phí. Đồng thời, việc cấp giấy phép in sách độc quyền còn tạo ra sự dễ dàng, thuận tiện cho chính quyền trong sự kiểm soát các ấn phẩm có tính chất dấy loạn hoặc phản tôn giáo1. Đạo luật đầu tiên về bản quyền của nớc này đợc ban hành năm 1709 thờng đợc gọi là Đạo luật của Nữ hoàng Anne (Statute of [Queen] Anne) đã dành 14 năm độc quyền cho việc in một cuốn sách và độc quyền này có thể đợc gia hạn thêm 14 năm nữa, nếu tác giả của cuốn sách vẫn còn sống khi thời hạn bảo hộ đầu tiên đã hết. ở Pháp, với hai Nghị định nổi tiếng năm 1791, 1793, Nhà nớc đã chính thức thiết lập luật về quyền tác giả, trong đó không chỉ bảo hộ lợi ích kinh tế của chủ nhà in, mà còn dành cho tác giả tác phẩm văn học, nghệ thuật một sự độc quyền trong sự cho phép nhân bản và trình diễn đối với tác phẩm của họ (chỉ với sự sửa đổi không đáng kể, luật này có hiệu lực cho tới năm 1957)2. Đến năm 1886, Công ớc quốc tế về Bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật đã đợc ký kết tại Berne - Thuỵ Sỹ với 10 nớc tham gia là Anh, Pháp, Đức, Hali, Tây Ban Nha, Bỉ, Thuỵ Sỹ, Li Bi, Hai-i-ti và Tuy Ni3 theo sáng kiến của các nhà xuất bản và nhà văn của hai nớc Anh và Pháp là những nớc có nền văn hoá, khoa học, nghệ thuật đơng thời tơng đối phát triển. Xuất phát từ cơ sở của nguyên tắc "xử sự hợp lý" (fair play) cũng nh từ nhiều lợi ích khác, họ đã đa ra yêu cầu bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật của tác giả trong phạm vi quốc tế.
 
ở Việt Nam, do hoàn cảnh lịch sử đất nớc trớc năm 1945 là sự kế tiếp của các triều đại phong kiến nên hầu nh cha thể xuất hiện bất kỳ ý tởng bảo hộ quyền của bất kỳ nhà sáng tác tác phẩm viết nào. Sau khi Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, do điều kiện riêng của sự phát triển kinh tế - xã hội, lại thêm hoàn cảnh chiến tranh kéo dài nên ngay cả trong chế độ dân chủ mới, chúng ta cũng chỉ có một số ghi nhận mang tính nguyên tắc và hết sức khái quát trong Hiến pháp về một vài vấn đề liên quan đến lợi ích của ngời sáng tạo. Chẳng hạn, tại Hiến pháp năm 1946 chỉ có Điều thứ 13 quy
định: "Quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay đợc bảo đảm". Còn Hiến pháp năm 1959 thì quy định rộng hơn: "… Nhà nớc khuyến khích tính sáng tạo và tinh thần tích cực trong lao động của những ngời lao động chân tay và lao động trí óc" (Điều 21); "Công dân nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hoá khác. Nhà nớc khuyến khích và giúp đỡ tính sáng tạo của những công dân theo đuổi sự nghiệp khoa học, văn học, nghệ thuật và các sự nghiệp văn hoá khác" (Điều 34).
Vì vậy, hoàn toàn có thể làm một phép tính để so sánh sự bảo hộ pháp lý quyền tác giả ở Việt Nam có sự ra đời muộn hơn nhiều nớc trên thế giới khoảng trên dới 100 năm. Khi mà vào năm 1886, đã có nhiều nớc ở Châu Âu và một vài nớc ở châu lục khác cùng nhau ký kết Công ớc quốc tế đầu tiên về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật, thì phải đến năm 1986, khi đất nớc đã đợc thống nhất, tr- ớc yêu cầu hiện thực hoá các quy định của Hiến pháp năm 1980, chúng ta mới ban hành đợc một văn bản điều chỉnh một số vấn đề cơ bản và cụ thể về quyền tác giả (với thẩm quyền của cơ quan ban hành và hiệu lực pháp lý còn khá khiêm tốn). Đó là Nghị định số 142/HĐBT ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) quy định quyền tác giả. Cùng với việc ban hành văn bản này, Nhà nớc ta lần đầu tiên đã chính thức ghi nhận nhiều nội dung trọng yếu của sự bảo hộ quyền tác giả nh quy định về tác giả, về các loại tác phẩm đợc bảo hộ, các quyền lợi tinh thần và vật chất của tác giả, thời hạn bảo hộ quyền tác giả… Sau mốc thời gian này, quy định pháp luật về quyền tác giả tiếp tục đợc thể hiện với các nội dung ngày càng đầy đủ hơn tại Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả năm 1994 và Bộ luật Dân sự năm 1995.
 
 
Những nét chính của sự bảo hộ quyền tác giả
 
Cho tới những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, trớc yêu cầu chung của tiến trình hội nhập kinh tế và thơng mại quốc tế, khung pháp lý về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung, bảo hộ quyền tác giả nói riêng của các nớc trên thế giới nhìn chung có sự tơng đối thống nhất. Điều này đợc giải thích bởi quy chuẩn pháp lý tối thiểu mỗi nớc cần có nếu muốn trở thành thành viên của Tổ chức Thơng mại thế giới WTO cũng nh sự ràng buộc giữa các quốc gia khi cùng nhau ký kết một số hiệp định song phơng hoặc đa phơng trong lĩnh vực này. Riêng về quyền tác giả, có thể khái quát 5 vấn đề chính sau đây:
 
 
1. Về tên gọi của lĩnh vực bảo hộ 
Liên quan đến vấn đề này, có sự tồn tại của hai cách gọi khác nhau: một số nớc trong đó có Việt Nam gọi là "quyền tác giả" (author’s right), nhiều nớc khác mà tiêu biểu nh Anh, Mỹ gọi là "bản quyền" (copyright). Dù gọi theo cách nào thì nội dung của văn bản pháp luật vẫn phải bao gồm các quy định về đối tợng bảo hộ quyền tác giả, các quyền của tác giả đối với tác phẩm, thời hạn bảo hộ quyền tác giả, giới hạn quyền tác giả…
 
Tuy nhiên, về mặt lịch sử, hai cách gọi này có điểm khác biệt cơ bản về cơ sở hình thành. Với cách gọi "bản quyền- copyright" thì đó là xuất phát từ khía cạnh thơng mại để nhấn mạnh quyền "sao chép, nhân bản" (copy) tác phẩm là hạt nhân cơ bản nhất trong tập hợp các quyền của tác giả (author) hoặc của ngời khác đợc pháp luật thừa nhận giữ quyền này, mà ban đầu quyền đó thờng thuộc về các chủ nhà in hoặc sau này là các nhà xuất bản. Nghĩa là, với cách gọi luật bản quyền, tr- ớc hết ngời ta đứng về phía các nhà khai thác giá trị kinh tế của tác phẩm, không phải đứng về phía ngời sáng tạo tác phẩm. Còn với cách gọi "quyền tác giả - author’s right" ngời ta lại dồn trọng tâm bảo vệ vào quyền của ngời sáng tạo tác phẩm với việc khẳng định ngời có các quyền đối với tác phẩm, đặc biệt là quyền tinh thần, đợc chú trọng và bảo hộ trớc hết phải là tác giả.
 
Lịch sử bảo hộ bản quyền trên thế giới vẫn phân biệt hai cách tiếp cận cơ bản theo hai quan điểm trên. Một là cách tiếp cận của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa với điểm xuất phát gắn chặt mối quan hệ cá nhân giữa tác giả với tác phẩm, vì thế quyền nhân thân của tác giả rất đợc coi trọng. Hai là cách tiếp cận của hệ thống pháp luật Anh - Mỹ lại hầu nh không để ý hoặc chỉ để ý rất ít tới quyền nhân thân, chỉ tập trung vào quyền kinh tế trong quá trình khai thác tác phẩm. Những cách tiếp cận khác nhau này về cơ bản thể hiện quan điểm lập pháp u tiên quyền lợi của tác giả hơn hay của nhà khai thác tác phẩm hơn.
 
 
2. Về tác giả và đối tợng bảo hộ quyền tác giả
 
 
Đây là hai vấn đề hết sức quan trọng trong pháp luật về quyền tác giả và giữa chúng có mối liên hệ rất chặt chẽ. Bởi vì, xét đến cùng thì mục đích chính của sự bảo hộ quyền tác giả không thể là cái gì khác ngoài việc làm cho tác giả đợc hởng ngày càng đầy đủ hơn các quyền lợi vật chất và tinh thầ trên kết quả của sự sáng tạo của mình đợc biểu hiện thông qua tác phẩm. Trong mối quan hệ này, nhìn chung, sự nhìn nhận về tác giả có sự thống nhất dễ dàng hơn so với sự nhìn nhận về tác phẩm. Dấu hiệu cô đọng và chuẩn xác nhất để xác định tác giả của tác phẩm là việc một hoặc một số ngời có bỏ công sức, trí tuệ để sáng tạo ra tác phẩm đó hay không. Đây là khía cạnh đợc quy định rất rõ tại khoản 1 Điều 745 của Bộ luật Dân sự (BLDS) Việt Nam: "Tác giả là ngời trực tiếp sáng tạo toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học". Tơng tự nh vậy, Đạo luật Bản quyền, Kiểu dáng và Sáng chế 1988 của Vơng quốc Anh quy định: tác giả là ngời sáng tạo ra tác phẩm và đợc xác định là ngời chủ sở hữu đầu tiên của bản quyền, trừ một số trờng hợp đặc biệt đợc quy định riêng4.So với quy định về tác giả thì quy định về đối tợng quyền tác giả (hay tác phẩm đợc bảo hộ) bao hàm sự phức tạp hơn rất nhiều. Về vấn đề này, Điều 747 của BLDS Việt Nam chỉ liệt kê theo tên gọi của 14 loại hình tác phẩm đợc bảo hộ mà không nêu khái niệm tác phẩm. Trong khi đó, điều này th- ờng đợc luật của các nớc quy định khá rõ. Chẳng hạn, theo Điều 4 Luật Bản quyền Estonia: "Nhằm mục đích của luật này, tác phẩm là bất cứ thành quả nguyên gốc nào trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật hoặc khoa học đợc thể hiện dới một hình thức khách quan có thể nhận biết đợc và sao chép đ- ợc dới hình thức này hoặc trực tiếp hoặc bằng các thiết bị kỹ thuật. Một tác phẩm có tính nguyên gốc nếu là thành quả sáng tạo trí tuệ của chính tác giả"5. Tiếp theo quy định này, họ cũng liệt kê lên tới 22 loại hình tác phẩm đợc bảo hộ theo luật bản quyền.
 
Khác với pháp luật của Việt Nam và pháp luật của Estonia, pháp luật về quyền tác giả của Cộng hoà Pháp và một số nớc Châu Âu quy định điều kiện tiên quyết để một tác phẩm đợc bảo hộ quyền tác giả là tác phẩm đó phải mang tính độc đáo. Trên cơ sở đó, họ đã đa ra một số đòi hỏi về "tính độc
đáo" của tác phẩm6(tác phẩm phải thể hiện đợc dấu ấn cá nhân của tác giả, không thể là một tác phẩm sao chép lại của ngời khác).  Vì vậy, hoàn toàn có thể coi sự bảo hộ pháp lý về quyền tác giả ở Việt Nam ra đời muộn hơn so với thế giới trên dới 100 năm, khi mà vào năm 1886, nhiều nớc ở Châu Âu và một vài châu lục khác đã cùng nhau ký kết Công ớc quốc tế đầu tiên về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật thì phải tới năm 1986, trong điều kiện đất nớc hoàn toàn thống nhất và thực thi qui định của Hiến pháp 1980, chúng ta mới có một văn bản pháp lý đầu tiên chính thức qui định một số vấn đề cơ bản, cụ thể về quyền tác giả với thẩm quyền của cơ quan ban hành và hiệu lực pháp lý còn ở mức độ khá khiêm tốn. Đó là Nghị định 142/HĐBT ngày 14.11.1986 của Hội đồng Bộ trởng qui định quyền tác giả. Dù sao, với việc ban hành văn bản này, Nhà nớc ta cũng đã bớc đầu đặt cơ sở pháp lý cho việc xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật về quyền tác giả, bảo hộ quyền lợi tinh thần, vật chất cho tác giả, khuyến khích công dân sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học... Sau thời điểm này, qui định pháp luật về bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam lần lợt đợc thể hiện tạiháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả ngay từ năm 1990 với nhiều thuận lợi nh chúng ta đã rút ra đợc nhiều kinh nghiệm bổ ích sau mấy năm ban hành và thực hiện Nghị định quyền tác giả. Mặt khác, nhiều quan hệ quốc tế đợc mở rộng đã giúp chúng ta có luật mẫu về quyền tác giả để nghiên cứu, tham khảo (do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới cung cấp). Những thuận lợi đó đã giúp cho việc soạn thảo dự án Pháp lệnh quyền tác giả tiến triển tốt đẹp. Ngày 2.12.1994 Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả đã chính thức đợc Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội thông qua và Chủ tịch nớc công bố ngày 10.12.1994 đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nớc ta trong việc bảo hộ quyền tác giả, góp phần thúc đẩy việc sáng tạo các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, phát triển nền văn hoá dân tộc hiện đại, nhân văn, mở rộng sự hợp tác và giao lu văn hoá, khoa học với các nớc.
 
a. Về các quyền của tác giả
 
Việc thừa nhận hay không thừa nhận các quyền tinh thần của ngời sáng tạo tác phẩm lại tồn tại quan điểmkhác biệt giữa các nớc theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa và hệ thống pháp luật Anh - Mỹ. Nếu nh các quyền nhân thân của tác giả luôn giữ một vị trí trang trọng trong pháp luật về quyền tác giả của Pháp, Nhật Bản, Việt Nam... thì ở Anh, Mỹ vấn đề này hoặc là chỉ đợc chú trọng gần đây hoặc là không đợc quy định. Cộng hoà Pháp thừa nhận 4 quyền nhân thân cụ thể của tác giả là: 1) Quyền đứng tên tác phẩm 2) Quyền công bố tác phẩm 3) Quyền rút lại tác phẩm 4) Quyền về tính toàn vẹn của tác phẩm7. Ngợc lại, Luật Bản quyền của Mỹ (Copyright Law of United States of America) cho tới sự sửa đổi vào năm 1996, vẫn không hề biết đến khái niệm quyền nhân thân của tác giả. Còn ở Anh thì phải mãi tới năm 1988, khi Nghị viện nớc này thông qua văn bản luật mới là Đạo luật Bản quyền, Kiểu dáng và Sáng chế (Copyright, Designs and Patents Act) thì các quyền tinh thần của tác giả mới đợc quy định, còn ở các đạo luật bản quyền có hiệu lực trớc đó (ví dụ đạo luật năm 1956) họ cũng hoàn toàn xa lạ với vấn đề quyền nhân thân hay quyền tinh thần của tác giả.
 
Tuy có những khác biệt trong quy định về quyền tinh thần nhng về quyền tài sản thì nhìn chung dù theo cách gọi nào (quyền tài sản hay quyền kinh tế) theo quy định của pháp luật nhiều nớc, tác giả luôn đợc thừa nhận có các quyền tài sản chuyên biệt nh quyền sao chép lại tác phẩm, quyền trình diễn tác phẩm, quyền dịch tác phẩm, quyền chuyển thể tác phẩm… mà thực chất khi đợc tập hợp lại, các quyền chuyên biệt này trở thành độc quyền khai thác tác phẩm của tác giả (ở Việt Nam các quyền này đợc gọi chung là quyền cho hoặc không cho phép ngời khác sử dụng tác phẩm và đợc quy định dới góc độ là một quyền nhân thân). Điều 751 của BLDS Việt Nam quy định tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền nhân thân và quyền tài sản bao gồm: 1) Đặt tên cho tác phẩm 2) Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; đợc nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm đ- ợc công bố, phổ biến, sử dụng 3) Công bố, phổ biến hoặc cho ngời khác công bố, phổ biến tác phẩm của mình 4) Cho hoặc không cho ngời khác sử dụng tác phẩm của mình 5) Bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, cho phép hoặc không cho phép ngời khác sửa đổi nội dung tác phẩm (các quyền nhân thân) 6) Đợc hởng nhuận bút 7) Đợc hởng thù lao khi tác phẩm đợc sử dụng 8) Đợc hởng lợi ích vật chất từ việc cho ngời khác sử dụng tác phẩm dới các hình thức xuất bản, tái bản, trng bày, triển lãm, biểu diễn, phát thanh, truyền hình, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh, dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, cho thuê 9) Nhận giải thởng đối với tác phẩm mà mình là tác giả, trừ trờng hợp tác phẩm không đợc Nhà nớc bảo hộ (các quyền tài sản).
 
b. Về giới hạn quyền tác giả
 
Theo một thông lệ chung, luật quyền tác giả của các nớc đều có những quy định hạn chế quyền của tác giả trong những trờng hợp nhất định, trên cơ sở đó cho phép ngời khác có quyền sử dụng tác phẩm của tác giả mà không phải xin phép, không phải trả thù lao nhng phải đảm bảo tuân thủ những
điều kiện và cách thức hợp lý luật định. Quy định này thờng đợc gọi là sử dụng hợp lý hoặc sử dụng cá nhân mà về cơ bản là nhằm giải quyết hài hoà mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và những ngời khác trong xã hội ở một mức độ có thể chấp nhận đợc. ở
Việt Nam, các điều 760, 761 của BLDS và Điều 12 của Nghị định 76/CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ quy định một phạm vi khá rộng rãi giới hạn quyền tác giả theo hớng có lợi cho ngời sử dụng. Chẳng hạn, ngời sử dụng ở Việt Nam hoàn toàn có quyền sao lại (toàn bộ) một cuốn sách để sử dụng riêng không quá một bản, trong khi điều này không hợp pháp ở nhiều nớc khác. Luật bản quyền Anh chỉ cho phép ngời đọc copy tới 10% nhng không đợc quá một chơng của một cuốn sách (luôn luôn ít hơn 10%). Vậy mà điều này vẫn vấp phải sự không đồng tình của một số tác giả Anh khi họ cho rằng tỷ lệ đó có thể là hợp lý đối với những cuốn sách mỏng hoặc có số trang vừa phải, nhng chắc chắn sẽ là bất hợp lý với cuốn sách Copyright dày 1.750 trang của Copinger và Skone James trình bày về chính vấn đề bản quyền8.
 
c. Về thời hạn bảo hộ quyền tác giả
 
Các quyền độc quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả luôn chỉ đợc bảo hộ trong một thời hạn nhất định nhằm tạo điều kiện cho họ và ngời thừa kế của họ trong việc hởng các quyền lợi vật chất từ quá trình khai thác tác phẩm. Hết thời hạn này, tác phẩm thuộc về chế độ công sản, mọi ngời trên thế giới đều có quyền tự do sử dụng chúng. Hiện nay, hầu hết các nớc đều quy định thời hạn bảo hộ bản quyền là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo sau khi tác giả chết. Đây là thời hạn tối thiểu đợc thể hiện tại Công ớc Berne 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Tuy nhiên, ở Châu Âu tình hình lại có sự khác biệt. Nhiều năm trớc, Đức là nớc tiên phong trong việc quy định thời hạn bảo hộ bản quyền kéo dài tới 70 năm sau khi tác giả chết. Do đó, từ năm 1993, Cộng đồng Châu Âu đã có yêu cầu hoà hợp thời hạn bảo hộ này trong luật pháp của các nớc thành viên9. Kết quả là Anh, Pháp và nhiều nớc Châu Âu khác đã bảo hộ bản quyền cho các tác giả là công dân nớc họ và công dân các nóc thành viên khác của Cộng đồng Châu Âu lên tới 70 năm sau cái chết của tác giả. ởViệt Nam, thời hạn bảo hộ quyền tác giả (áp dụng đối với hai quyền nhân thân là quyền công bố, phổ biến hoặc cho ngời khác công bố, phổ biến tác phẩm; quyền cho hoặc không cho ngời khác sử dụng tác phẩm và các quyền tài sản) là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết. Nếu tác phẩm do các đồng tác giả cùng sáng tạo thì thời hạn 50 năm đợc tính kể từ khi đồng tác giả cuối cùng chết. Riêng đối với các tác phẩm điện ảnh, phát thanh, truyền hình, video và tác phẩm di cảo - do đặc thù riêng không thể xác định thời hạn bảo hộ theo cá nhân cuộc đời tác giả - nên các loại tác phẩm này chỉ đợc bảo hộ trong thời hạn 50 năm kể từ ngày tác phẩm đợc công bố lần đầu tiên (Điều 766 của BLDS)./.
 
 
 
 
 

 
1.        Xem: Intellectual Property Law - Paul Marett -Published by Sweet and Maxwel. London 1996. Tr.5
2.        Xem: Intellectual Property Law. Sách đã dẫn. Tr 6, Tr 219.
3.        Xem: Những Công ớc quốc tế về quyền tác giả. Cục Bản quyền tác giả Hà Nội1997. Tr 4.
4.        Xem: Intellectual Property Law. Sách đã dẫn. Tr 40
5.        Xem: Quyền tác giả và quyền liên quan. Kart Hinnok. Tài liệu hội thảo về Hiệp định TRIPs, Công ớc Berne và Công ớc Rome. Hà Nội 6/2001
6.        Xem: Hội thảo Pháp - Việt: Khoảng không vũ trụ, mạng không gian và thông tin viễn thông. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1999. Tr 88
7.        Xem: Hội thảo Pháp - Việt. Tài liệu đã dẫn. Tr 102 – 103.
8.        Xem: Intellectual Property Law. Sách đã dẫn. Tr 49
9.        Xem: Intellectual Property Law. Sách đã dẫn. Tr 43