Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm quyền cổ đông phổ thông công ty cổ phần

01/09/2012

ThS. TRƯƠNG VĨNH XUÂN

Học viện Chính trị, Hành chính Quốc gia khu vực IV.

Cổ đông là người chủ thực sự của công ty, là người đồng sở hữu công ty. Pháp luật đã quy định các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty. Pháp luật còn quy định việc xử lý vi phạm (XLVP) quyền cổ đông một cách nghiêm minh để bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty, đặc biệt là các cổ đông chiếm số đông - cổ đông phổ thông. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật về XLVP trong thực thi quyền cổ đông còn nhiều khoảng trống cần được bổ sung và hoàn thiện.
Untitled_546.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Xử lý vi phạm quyền cổ đông phổ thông và sự cần thiết quy định xử lý vi phạm  quyền cổ đông
1.1. Xử lý vi phạm quyền cổ đông
Dưới góc độ pháp lý, quyền được hiểu là cách xử sự được phép của chủ thể mà pháp luật thừa nhận[1]. Do vậy, quyền cổ đông là khả năng mà cổ đông xử sự theo những quy định pháp luật dành cho cổ đông, trong đó có cổ đông phổ thông (sau đây gọi là cổ đông).
Quyền cổ đông phải gắn liền với nghĩa vụ của cổ đông và gắn liền với nghĩa vụ của các chủ thể khác nhằm đảm bảo các quyền của cổ đông được thực hiện trên thực tế. Quyền của cổ đông hoàn toàn khác với nghĩa vụ của họ, họ có quyền lựa chọn các xử sự cho phù hợp hoặc từ bỏ quyền của mình. Ngược với chủ thể có quyền, các chủ thể đối ứng phải thực hiện nghĩa vụ mang tính bắt buộc để đáp ứng các quyền. Các chủ thể này nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ để đáp ứng các quyền mà pháp luật quy định cho các cổ đông là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông.
Mọi sự vi phạm pháp luật xâm hại đến quyền của cổ đông phổ thông đều phải bị xử lý và áp dụng các chế tài là điều cần thiết phải có trong quá trình xử lý. Các chế tài đó có thể là những chế tài hành chính, chế tài dân sự hoặc chế tài hình sự.
Chế tài là biện pháp áp dụng đối với chủ thể nào không xử sự đúng pháp luật, cụ thể là không đúng như quy định của quy phạm pháp luật để bảo đảm việc tôn trọng, tuân theo pháp luật[2]. Từ đó, có thể hiểu chế tài XLVP quyền cổ đông là những hậu quả pháp lý bất lợi mà một chủ thể (có thể là cá nhân hoặc tổ chức) vi phạm pháp luật phải chịu do làm ảnh hưởng, xâm hại đến quyền của cổ đông và gây ra những thiệt hại nhất định đối với cổ đông.
1.2. Sự cần thiết của quy định XLVP quyền cổ đông  
Quy định pháp luật về xử lý đối với vi phạm quyền cổ đông công ty cổ phần (CTCP) vừa thể hiện tính bảo vệ của pháp luật, vừa là nền tảng hướng tới mục tiêu chung của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang không ngừng xây dựng và hoàn thiện. Thực thi pháp luật về quyền cổ đông và những quy định về chế tài, cơ chế thực hiện XLVP quyền cổ đông còn là cơ sở bảo vệ các nhà đầu tư nói chung, cổ đông nói riêng mà chiếm đại đa số là các cổ đông phổ thông. Thông qua đó, các quyền lợi của xã hội không ngừng được đảm bảo, duy trì trật tự xã hội ổn định và tạo điều kiện phát triển kinh tế. Ngoài ra, đó cũng là điều kiện nhằm không ngừng xây dựng và nâng cao lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh tế.
Vì vậy, quy định pháp luật về XLVP quyền cổ đông phổ thông là điều kiện cần thiết nhằm làm cho các quyền cổ đông phổ thông được đảm bảo thực thi. Và nó sẽ không ngừng được bổ sung và hoàn thiện trên thực tế.
2. Quy định và áp dụng việc xử lý vi phạm quyền cổ đông phổ thông  
2.1     Quy định và thực trạng thi hành XLVP quyền cổ đông phổ thông   
Quyền cổ đông được thực hiện thường ngày, trong từng CTCP và vi phạm quyền của cổ đông cũng xảy ra thường xuyên hơn, dưới nhiều góc độ khác nhau, rất đa dạng, phong phú.
Pháp luật Việt Nam hiện nay đã quy định xử phạt vi phạm các quyền của cổ đông tương đối đầy đủ, đồng bộ từ thẩm quyền, trình tự thủ tục, cũng như các loại chế tài xử lý khi có trường hợp vi phạm xảy ra. Pháp luật về XLVP quyền cổ đông chủ yếu tập trung trong quy định của Bộ luật Dân sự (2005), Luật Chứng khoán (2007 (sđ, bs 2010)), Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Hình sự (1999 (sđ, bs 2010)), Luật Tố tụng dân sự - TTDS (2004, sđ, bs 2011), Luật Tố tụng hình sự (2003), Pháp lệnh XLVP hành chính (2002, sđ, bs 2004, 2008) và các văn bản dưới luật: Nghị định 53/2007/NĐ-CP ngày 4/4/2007 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, Nghị định 85/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nghị định 01/2010/NĐ-CP ngày 04/01/2010 về chào bán cổ phần riêng lẻ, Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 về hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp.
Một số vi phạm liên quan đến quyền cổ đông được xem là những tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật TTDS (2004, sđ, bs 2011). Theo đó, Luật TTDS (2004, sđ, bs 2011) đã nêu: “Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty”[3]sẽ do toà án giải quyết. Quy định này chủ yếu thể hiện dưới dạng quyền của các chủ thể, bằng cách các chủ thể có thể khởi kiện yêu cầu toà án bảo vệ quyền của mình. Hoặccổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền yêu cầu Ban kiểm soát khởi kiện trách nhiệm dân sự hoặc tự mình (nếu công ty không có Ban kiểm soát hoặc Ban kiểm soát không thực hiện quyền yêu cầu) đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc) với nhiều lý do khác nhau, trong đó bao gồm những lý do ảnh hưởng đến quyền của các cổ đông trong công ty[4]. Bản án, quyết định của toà án có thể sẽ bao gồm những chế tài cần thiết bảo vệ các quyền của cổ đông trước sự xâm hại ảnh hưởng đến các quyền đó của cổ đông. Nội dung của chế tài trong các bản án, quyết định của toà án chủ yếu có tính chất dân sự hoặc kinh tế.
Pháp luật cũng quy định những trường hợp các cổ đông không yêu cầu bảo vệ quyền của mình nhưng các vi phạm này cũng phải được xử lý dưới một hình thức chế tài nhất định. Đó là các chế tài thể hiện tính thụ động đối với cổ đông bị xâm hại và tính chủ động xử lý các vi phạm quyền cổ đông đã chuyển sang cho các cơ quan quản lý nhà nước. Tuỳ từng mức độ, các quy định đó được thể hiện trong văn bản như: Quyết định 112/2009/QĐ-TTg về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Chứng khoán nhà nước thuộc Bộ Tài chính[5], Nghị định 85/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nghị định 53/2007/NĐ-CP ngày 4/4/2007 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, Nghị định 01/2010/NĐ-CP ngày 04/01/2010 về chào bán cổ phần riêng lẻ… Các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) cố ý hoặc vô ý vi phạm quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử phạt vi phạm hành chính[6]. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng biện pháp pháp lý hình sự để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán[7] với ba tội danh mới được sửa đổi bổ sung trong Luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2010): tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán[8]; tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán[9]; tội thao túng chứng khoán[10]. Tuy nhiên các quy định này chủ yếu áp dụng đối với những vi phạm quyền cổ đông trong các CTCP là công ty chứng khoán, chỉ có một số trường hợp áp dụng đối với CTCP không phải là công ty chứng khoán.
Trong quy định của Luật Doanh nghiệp, Đại hội đồng cổ đông cũng có quyền “xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát gây thiệt hại cho công ty và cổ đông công ty”[11]. Chúng ta nhận thấy, Đại hội đồng cổ đông không có quyền áp dụng pháp luật nhưng họ có quyền xem xét và xử lý nếu Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát làm thiệt hại đến quyền, lợi ích của các cổ đông. Nếu việc xử lý không thể dẫn đến một kết quả tốt, khôi phục các thiệt hại về quyền, lợi ích của các cổ đông, các cổ đông có thể thực hiện quyền khởi kiện ở toà án với tư cách là tranh chấp kinh tế giữa công ty với thành viên công ty theo Luật TTDS (2004).
Bảo vệ quyền lợi của cổ đông là một trong những mục tiêu quan trọng của pháp luật kinh doanh, thương mại. Pháp luật về XLVP quyền cổ đông đã và đang trong quá trình hoàn thiện dần, nhưng việc XLVP và áp dụng chế tài xử phạt chưa đủ bao quát và đủ mạnh nên tác dụng chưa thực sự như mong muốn.
Các quyền cổ đông có nhiều cách phân chia khác nhau[12]. Tuy nhiên, trên cơ sở tần suất vi phạm, chúng ta có thể xem xét phân loại vi phạm các quyền của cổ đông phổ thông thành những những quyền ít vi phạm, vi phạm có tính chất định kỳnhững quyền vi phạm thường xuyên hơn. Các quyền cổ đông dễ vi phạm gồm các quyền thông tin[13], định giá cổ phần không đồng nhất giữa các cổ đông để chi phối quyền ưu tiên mua cổ phần[14], bán cổ phần[15] quyền yêu cầu điều tra, kiểm soát… Bên cạnh đó, có những quyền chỉ vi phạm có tính chất định kỳ như quyền triệu tập họp đại hội đồng cổ đông và họp đại hội đồng cổ đông[16], quyền bổ nhiệm các chức danh quản lý trong công ty[17], quyền kiến nghị về tính hợp lệ của nghị quyết đại hội đồng cổ đông…
Chúng ta nhận thấy rằng, pháp luật về XLVP quyền cổ đông là một trong những khả năng làm cho những quyền của cổ đông được thực hiện trên thực tế. Nhưng các yếu tố pháp lý là chưa hoàn toàn đầy đủ, vì có những nội dung pháp luật đã quy định, chế tài đã có mà việc thực hiện quyền cổ đông và bảo đảm thực hiện quyền cổ đông vẫn chưa được tốt.
Quyền cổ đông và pháp luật về XLVP quyền cổ đông được thực hiện và bảo đảm thực hiện từ nhiều phía: bản thân cổ đông, các CTCP (thông qua người quản trị công ty) và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trước hết, chúng ta nhận thấy nhiều cổ đông chưa nhận biết được quyền của mình[18] và “cũng phải thừa nhận rằng ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ của các cổ đông hiện vẫn chưa thật tốt”[19] nên ngay bản thân cổ đông không biết mình có bị vi phạm hay không các quyền của mình và như thế, càng không thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp và áp dụng các biện pháp chế tài XLVP được. Cũng có trường hợp cổ đông biết quyền bị vi phạm nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau để cổ đông không yêu cầu bảo vệ, có thể hiểu từ góc độ văn hoá ngại “kiện tụng”, đến ngại tốn kém thời gian, tiền bạc để yêu cầu bảo vệ quyền của mình và cũng không loại trừ khả năng mục đích khác của cổ đông như muốn mua nhanh bán nhanh hưởng phần chênh lệch, hưởng cổ tức… khi mua cổ phần. Tuy nhiên, cũng có trường hợp các cổ đông thực sự không am hiểu quyền cổ đông của mình và có những hành xử vi phạm pháp luật như nhận xét của PGS,TS Phạm Duy Nghĩa “… nhiều cổ đông không hiểu quyền của mình, họ cứ nghĩ mua cổ phiếu là có quyền làm chủ, tùy tiện hành xử mà không căn cứ vào luật”[20].
Từ một góc nhìn khác, chúng ta lại thấy rằng, các CTCP (thông qua những người quản trị công ty) lại không muốn thực hiện các nghĩa vụ nhằm đảm bảo quyền cổ đông, và đôi khi xâm hại đến các quyền đó.
Song song đó, việc quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng chưa được sát sao, thủ tục để các cổ đông thực hiện các quyền yêu cầu đối với những vi phạm quyền cổ đông chưa đáp ứng với điều kiện kinh tế thị trường, đặc biệt đối với các CTCP là công ty đại chúng.
2.2. Việc áp dụng pháp luật XLVP quyền cổ đông theo pháp luật hiện nay
Pháp luật về xử lý quyền cổ đông đã thể hiện được phần nào phản ứng của Nhà nước đối với những hành vi vi phạm pháp luật xâm hại đến quyền của các cổ đông, nhưng khả năng thực thi trên thực tế gặp không ít khó khăn. Các quy định XLVP quyền cổ đông đã được các cổ đông sử dụng như một phương tiện bảo vệ quyền của mình. Tuy nhiên, các vi phạm bị xử lý chủ yếu thuộc các CTCP là công ty đại chúng.
Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền XLVP các quyền cổ đông chủ yếu là Toà án, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền, Sở Kế hoạch và Đầu tư (Thanh tra kế hoạch và đầu tư, Thanh tra chuyên ngành), Uỷ ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN), Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế… và một số cơ quan có thẩm quyền khác. Với thẩm quyền của mình, các cơ quan có thẩm thực hiện thủ tục theo quy định của pháp luật và áp dụng các chế tài hành chính, chế tài dân sự, chế tài hình sự.
Hiện nay, các tranh chấp trong kinh doanh thương mại thuộc quyền giải quyết của toà án liên quan đến bảo vệ quyền cổ đông rất ít. Các vi phạm của các CTCP liên quan đến quyền cổ đông theo nghị định 53/2007/NĐ-CP[21] lại càng ít diễn ra. Qua tham khảo tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, XLVP theo nghị định 53/2007/NĐ-CP chỉ thực hiện vài vụ/năm, có năm không có vụ nào.  
Các tranh chấp liên quan đến các công ty chứng khoán có xử lý nhiều hơn, như trong năm 2011, UBCKNN đã ban hành 164 quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức và cá nhân với tổng số tiền thu nộp về ngân sách gần 11 tỷ đồng, cụ thể: UBCKNN đã xử lý 63 trường hợp vi phạm các quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng, chế độ báo cáo và công bố thông tin; xử lý 9 cá nhân có hành vi giao dịch giả tạo, thao túng thị trường. Ngoài ra, UBCKNN cũng đã xử lý 47 trường hợp có hành vi thực hiện giao dịch chứng khoán không báo cáo của các cổ đông nội bộ công ty niêm yết; 11 trường hợp vi phạm quy định về chế độ báo cáo và công bố thông tin của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ; kiên quyết làm rõ sai phạm và xử lý nghiêm đối với các CtyNY có hành vi vi phạm quy định về chế độ báo cáo và CBTT (định kỳ và bất thường) trên TTCK. Đặc biệt, là quy trách nhiệm pháp lý cụ thể tới từng cá nhân tại các công ty có vi phạm.[22]
Việc XLVP quyền cổ đông phổ thông ít được thực hiện có thể do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, thủ tục tố tụng theo Luật TTDS (2004) giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại thường phức tạp, kéo dài. Nếu tính tương quan giữa thời gian, công sức bỏ ra theo đuổi vụ kiện và lợi ích từ kết quả của các vụ kiện là không nhiều, nhất là thiệt hại xâm hại đến quyền cổ đông không lớn. Vì vậy, “thủ tục này có thể làm nản lòng nhà đầu tư khi có ý định khởi kiện…”[23]. Cũng không loại trừ một số trường hợp, các cổ đông nhỏ nhận thấy vi phạm nhưng không muốn theo đuổi.
Thứ hai, xử lý các vi phạm liên quan đến quyền cổ đông phổ thông theo Nghị định 53/2007/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư còn chưa được quan tâm. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ít kiểm tra, thanh tra và tiến hành xử lý các vi phạm quyền cổ đông của các CTCP. Một mặt, họ không có đủ nhân lực cho việc thực hiện kiểm tra, XLVP; mặc khác, cũng có yếu tố nể nang, cả nể trong việc xử lý và bản thân cổ đông không nhận thức được các quyền của mình có vi phạm hay không.
Thứ ba, trường hợp Đại hội đồng cổ đông xem xét xử lý các vi phạm quyền cổ đông là khó xảy ra. Các vi phạm chủ yếu là do những cơ quan, người quản trị doanh nghiệp thực hiện. Họ lại là những người trực tiếp thực hiện những công việc liên quan đến nội dung, chương trình họp Đại hội cổ đông nên khả năng đưa vào chương trình cuộc họp là khó khả thi. Vì không ai muốn đưa ra cuộc họp nội dung công việc xử lý mà họ đã vi phạm.
Thứ tư, thị trường chứng khoán là bề nổi của các CTCP nên quan tâm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ quan báo chí, cổ đông phổ thông tập trung vào các CTCP là công ty đại chúng. Các CTCP không phải là công ty đại chúng ít được quan tâm, nên các vi phạm quyền cổ đông của các công ty này cũng ít được quan tâm theo. Các chế tài XLVP quyền cổ đông phổ thông được tập trung nhiều nhất ở các công ty đại chúng.
Thứ năm, còn một yếu tố rất quan trọng là sự thờ ơ của cổ đông đối với những quyền của mình bị vi phạm.
Như vậy, các quy định pháp luật về XLVP quyền cổ đông đã có và việc thực hiện pháp luật bảo vệ quyền cổ đông cũng đã đi vào cuộc sống nhưng cũng gặp nhiều khó khăn, trở ngại cần hoàn thiện hơn nữa để bảo vệ quyền lợi của cổ đông.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm quyền cổ đông
- Xây dựng hệ thống chế tài phù hợp, mức chế tài phải đủ sức răn đe. Các chế tài phải thể hiện được quan điểm: những khoản thu bất hợp pháp từ vi phạm quyền cổ đông đều phải bị tịch thu và bên cạnh đó, chủ thể vi phạm quyền cổ đông còn phải chịu chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự (nếu có).
Dẫu biết rằng việc xác định khoản thu bất hợp pháp là không dễ đối với các cơ quan có thẩm quyền. Nhưng thiết nghĩ, các cơ quan có thẩm quyền thực hiện tốt việc tịch thu các khoản thu lợi bất hợp pháp trong giai đoạn mới ban hành chắc chắn sẽ tạo được lòng tin ở các nhà đầu tư, và tạo được sức răn đe đối với những chủ thể muốn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật xâm hại đến quyền cổ đông.
Trong một số trường hợp, bên cạnh việc cổ đông khởi kiện yêu cầu toà án cấp có thẩm quyền giải quyết bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại xảy ra, các chủ thể vi phạm quyền cổ đông còn có thể bị xử phạt vi phạm chính trong lĩnh vực đó.
- Xây dựng cơ chế linh hoạt XLVP quyền cổ đông, bao gồm cả cơ chế cố định và cơ chế linh hoạt khi xử lý. Việc XLVP quyền cổ đông cần đánh giá dựa trên: một là, việc xử lý được xem như nhu cầu của cổ đông có quyền bị xâm hại (hay còn gọi là thực hiện quyền cổ đông bảo vệ quyền của mình bị xâm hại); hai là, cơ quan nhà nước có thẩm quyền XLVP quyền cổ đông chủ động thực hiện chức năng của mình khi có dấu hiệu vi phạm hành chính hoặc vi phạm hình sự xâm hại đến các quyền cổ đông.
Trước hết, cần phải có cách nhìn thoáng hơn về XLVP quyền cổ đông. Tức là phải xem đây là hướng mở với tư cách là quyền của cổ đông, cổ đông có thể thực hiện hoặc không thực hiện. Chúng ta nên bổ sung Luật TTDS hiện hành về cơ chế rút gọn để thực hiện xử lý các vi phạm quyền cổ đông đã có chứng cứ rõ ràng, với tính chất là tranh chấp kinh tế do cổ đông thực hiện quyền khởi kiện. Thể hiện ở thủ tục ngắn gọn, thời gian nhanh hơn thời gian tố tụng thông thường hiện nay. Những trường hợp phức tạp sẽ thực hiện theo thủ tục chung.
Quản lý của cơ quan nhà nước đối với hoạt động của các CTCP khi thực hiện các quyền cổ đông là cần thiết. Trên cơ sở những quy định pháp luật, khi nhận thấy các vi phạm pháp luật cần thiết phải có sự tác động bằng các chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự, các cơ quan nhà nước trong thẩm quyền phải xử lý nghiêm minh những vi phạm xâm hại đến quyền cổ đông. Đây là sự thể hiện quyền lực nhà nước trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước, cần thiết phải lập lại trật tự xã hội trong lĩnh vực này.
- Không ngừng nâng cao ý thức pháp luật của các cổ đông. Tuy nhiên việc thực hiện vận động, tuyên truyền nâng cao ý thức về các quyền của cổ đông phải được thực hiện dựa trên nguyên tắc xuất phát từ mong muốn của các cổ đông. Chúng ta nhận thấy rằng, vì những mục tiêu khác nhau, các cổ đông không phải lúc nào cũng nghĩ đến quyền cổ đông của mình. Phần lớn các cổ đông quan tâm đến quyền của mình nhưng không ít các cổ đông chẳng muốn quan tâm vì những lý do khác nhau. Do vậy, không thể hoàn toàn đánh giá các cổ đông không có ý thức pháp luật về quyền cổ đông, đôi khi có những trường hợp hiểu biết về quyền của mình nhưng cổ đông không muốn thực hiện. Cho nên, việc vận động tuyên truyền quyền cổ đông được thực hiện ở những địa chỉ nhất định, hình thức phù hợp làm sao có thể đáp ứng được những cổ đông quan tâm, làm cơ sở để những cổ đông khi cần có thể tìm hiểu quyền của mình và chúng ta cũng không cần thiết quá quan tâm đến những cổ đông không bao giờ muốn lưu ý đến quyền của mình.
- Nhất thể hoá hoặc ít nhất cũng thực hiện tương đối việc nhất thể hoá các cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm quyền cổ đông. Xu hướng tới, chúng ta xác định thẩm quyền cho một, hai hoặc cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm quyền cổ đông và phân định rõ rằng chức năng nhiệm vụ. Nên chăng, phân định chức năng của các cơ quan XLVP quyền cổ đông theo ba hướng chính:
Một là Toà án nhân dân cấp có thẩm quyền. Các cổ đông khi nhận thấy quyền của mình bị xâm hại có thể yêu cầu toà án thực hiện quyền của mình và toà án có thể áp dụng các chế tài cần thiết để đảm bảo thực hiện các quyền hoặc khôi phục các quyền cổ đông bị xâm hại.
Hai là, các hoạt động liên quan đến chứng khoán thì sẽ do UBCKNN thực hiện xử lý dưới hình thức các chế tài hành chính. Nếu những vi phạm quyền cổ đông của các CTCP là công ty chứng khoán sẽ do UBCKNN thực hiện. Những vi phạm quyền cổ đông trong lĩnh vực chứng khoán đến mức vi phạm pháp luật hình sự thì sẽ được xử lý theo thủ tục tố tụng hình sự và áp dụng những chế tài hình sự cần thiết.
Ba là, Sở kế hoạch và đầu tư (thông qua Phòng Đăng ký kinh doanh) chỉ là cơ quan vừa thực hiện “tiền kiểm” và “hậu kiểm” đối với doanh nghiệp. Cơ quan này thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, XLVP hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh đối với các loại CTCP (bao gồm cả công ty chứng khoán), và XLVP hành chính đối hành vi vi phạm quyền cổ đông trong các CTCP không phải là công ty chứng khoán./.
 

 


[1] PGS, TS Trần Ngọc Đường chủ biên (2000), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật (tập 1), NXB Chính trị Quốc gia, H., tr 340: “Quyền chủ thể là cách xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể được tiến hành”; Trường Đại học luật Hà nội (1998), Giáo trình Luật Dân sự (tập I), NXB Công an nhân dân, H., tr 66: “Quyền dân sự là cách xử sự được phép của người có quyền năng”
[2] Từ tiển Luật học (1999), Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, H., tr 83
[3] Điều 29 khoản 3 Luật TTDS (2004, sđ, bs 2011)
[4] Điều 25 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 về hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp
[5] Khoản 8 điều 2, Quyết định 112/2009/QĐ-TTg ban hành ngày 11/9/2009
[6] Điều 2 Nghị định 85/2010/NĐ-CP ban hành ngày 2/8/2010 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
[7] Phan Anh Tuấn (2010), Các tội phạm về chứng khoán trong luật hình sự Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm này, Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2011, tr 15
[8] Điều 181a, Luật Hình sự 1999 (sđ, bs 2010)
[9] Điều 181b, Luật Hình sự 1999 (sđ, bs 2010)
[10] Điều 181c, Luật Hình sự 1999 (sđ, bs 2010)
[11]Điều 96, khoản 2 điểm h, Luật Doanh nghiệp (2005)
[12] Xem thêm Quách Thuý Quỳnh (2010), Quyền của cổ đông thiểu số theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học số 4/2010, tr 19 chia quyền cổ đông thành quyền mang tính chất phòng ngừa (prevention rights) và quyền mang tính chất khắc phục (remedy rights); TS TS. Bùi Xuân Hải (2011), Luật Doanh nghiệp bảo vệ cổ đông, lý luận và thực tiễn, NXB CTQG, H, tr 200 – 205 chia quyền cổ đông thành các nhóm quyền: nhóm quyền về tài sản, nhóm quyền về quản trị công ty, nhóm quyền về thông tin, nhóm quyền phục hồi quyền lợi (nhóm quyền mang tính khắc phục).
[13] Theo ý kiến của bà Vũ Thị Chân Phương, đại diện thanh tra Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về vi phạm công bố thông tin có hai loại: “Một là vi phạm về nghĩa vụ báo cáo, công bố thông tin về giao dịch của cổ đông nội bộ, cổ đông lớn của Cty đại chúng và người có liên quan của các đối tượng này. Hai là vi phạm về nghĩa vụ báo cáo, công bố thông tin của tổ chức niêm yết trên các Sở giao dịch Chứng khoán” trong bài “Sẽ tăng chế tài xử phạt trong lĩnh vực chứng khoán” tại http://www.thanhtra.com.vn/tabid/77/newsid/46121/Default.aspx [6/10/2011]
[14] Có rất nhiều công ty quyết định giá cổ phần/cổ phiếu thấp hơn giá thị trường sao cho có lợi cho những cổ đông lớn, thành viên Hội đồng quản trị… Ví dụ như trong các công ty CTCP Giao nhận vận tải & thương mại (Vinalink), CTCP dịch vụ Sài Gòn - Savico (SVC),… Liên quan đến giá cổ phần/cổ phiếu, một số công ty cho phép cổ đông nhỏ mua cổ phần/cổ phiếu của công ty nhưng quy định giá mua của cổ đông nhỏ cao hơn nhiều lần giá mua của cổ đông lớn như CTCP vận tải xăng dầu (VIPCO)… Xem thêm, ThS Trương Vĩnh Xuân, Quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ CTCP hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 5/2010
[15] Thương vụ bà Nguyễn Thị Kim Phượng thực hiện với cổ phiếu VTV có nhiều chi tiết đáng lưu ý. Ngày 3/2/2010, bà Phượng chào mua công khai 1,3 triệu cổ phiếu VTV tại HNX với mục đích tăng tỷ lệ nắm giữ. Giá cổ phiếu vào thời điểm này khoảng 40.000 đồng. Đến ngày 24/3, khi lệnh chào mua đã bị hủy do giá cổ phiếu tăng cao quá 30%, bà Phượng bất ngờ bán ra toàn bộ số cổ phiếu đang nắm giữ (không hề thông báo). Giá lớp lệnh trong phiên giao dịch này của VTV là hơn 55.000 đồng một cổ phiếu. Nhẩm tính với khối lượng 557.800 cổ phiếu bán ra, lợi nhuận chênh lệch mà bà Phượng thu được không dưới 8,3 tỷ đồng. http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Chung-khoan/2010/04/3BA1A688/
[16] TS, Bùi Xuân Hải, Bất cập quyền dự họp Đại Hội Đồng Cổ Đông, http://doanhnhanphapluat.vn/index.php/phap-luat/phn-bin/259-bt-cp-quyn-d-hp-i-hi-ng-c-ong.html [28/4/2011]; ThS, Trương Vĩnh Xuân (2010), Quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ CTCP hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 5/2010.
[17] Các cổ đông lớn mà chủ yếu là các cổ đông nhà nước thường lạm dụng và thực thi quyền chưa đúng với quy định của pháp luật liên quan quan đến bổ nhiệm thành viên HĐQT, liên quan tăng giảm vốn điều lệ, hoặc sử dụng tài sản phục vụ cho lợi ích riêng. Http://brandco.vn/service-view-2174/ban-ve-quyen-cua-co-dong-va-dai-hoi-dong-co-dong-thuc-trang-va-van-de-can-khac-phuc/
[18] Theo kết quả điều tra thì có 47% số cổ đông được hỏi không biết hoặc biết chút ít các quyền của mình theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 và khoảng 36% cổ đông không biết hoặc biết chút ít về quyền của mình theo điều lệ công ty. TS, Bùi Xuân Hải (2011), Luật Doanh nghiệp, bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn, NXB CTQG-ST, tr 183.
[19] Cổ đông cần năng cao ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ để tránh thua thiệthttp://www.vctv.vn/122p138c141/ co-dong-can-nang-cao-y-thuc-ve-quyen-loi-va-nghia-vu-de-tranh-thua-thiet.htm [15.5.2008]
[20] Hồng Sương, Khi cổ đông lơ mơ quyền làm chủ, http://sgtt.vn/Kinh-te/130115/Khi-co-dong-lo-mo-quyen-lam-chu.html [27/09/2010]
[21] Ví dụ như Điều 38: Hành vi vi phạm các quy định về công khai thông tin của doanh nghiệp
[23] TS Nguyễn Văn Vân, Các biện pháp pháp lý bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2010, tr 33.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17(225), tháng 9/2012)