Tham khảo pháp luật Liên bang Nga khi xây dựng pháp lệnh về quản lý, sử dụng vũ khí dân dụng, công vụ và đạn

01/12/2010

LÊ VIỆT TRƯỜNG

Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội

1. Những nội dung cơ bản của đạo luật về quản lý và sử dụng vũ khí dân dụng, công vụ và đạn của Liên bang Nga
Bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của mọi quốc gia. Hiện nay ở Liên bang Nga, các lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, lực lượng bảo vệ trong một số lĩnh vực đặc thù được Nhà nước bảo đảm khá đầy đủ các điều kiện để thực thi nhiệm vụ, đặc biệt là hành lang pháp lý và cơ sở vật chất kỹ thuật. Về pháp lý, Duma quốc gia Liên bang Nga đã ban hành Luật quy định về quản lý vũ khí dân dụng, công vụ và đạn (sau đây gọi tắt là Luật) lần đầu tiên năm 1996 và sửa đổi, bổ sung năm 2009. Qua nghiên cứu đạo luật này, chúng tôi thấy nhiều nội dung rất bổ ích, có thể tham khảo cho việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và vật liệu nổ ở Việt Nam.
- Khái niệm “vũ khí”: Luật của Liên bang Nga quy định “Vũ khí là thiết bị và vật được chế tạo để sát thương mục tiêu sống và các mục tiêu tương tự hoặc để phát tín hiệu”. Đây là khái niệm rất khoa học và chính xác, vì nó chỉ rõ thuộc tính chung và cũng là đặc trưng của vũ khí là nguồn nguy hiểm thường trực đối với sức khỏe và tính mạng của con người. Khái niệm này bao gồm toàn bộ hỏa khí, vũ khí lạnh (kiếm, dao găm), vũ khí ném (phóng), súng hơi (khí nén), súng hơi gaz, súng tín hiệu, thiết bị cao áp và phóng tia lửa điện (dùi cui hoặc roi điện), súng tín hiệu và các loại đạn tương ứng (không bao gồm vật liệu nổ). 
- Phân loại vũ khí:Căn cứ vào mục đích sử dụng, chủ thể sử dụng và thông số kỹ thuật của vũ khí, Luật của Liên bang Nga chia vũ khí thành 3 nhóm: vũ khí dân dụng, vũ khí công vụ và vũ khí chiến đấu cầm tay (vũ khí nóng và vũ khí lạnh).
Nhóm vũ khí dân dụng: Với mục đích tự vệ, săn bắn và thể thao, đối tượng sử dụng là các công dân Liên bang Nga (đối tượng rộng rãi), do đó vũ khí thuộc nhóm này có mức độ nguy hiểm thấp nhất, gồm 5 loại: vũ khí tự vệ (nòng không có rãnh xoắn, súng hơi gaz, thiết bị phóng điện), súng thể thao, súng săn, súng tín hiệu và vũ khí lạnh (dao găm, kiếm mang theo trang phục của người Cô-dắc).
Nhóm vũ khí công vụ: Là vũ khí có mức độ nguy hiểm cao hơn, vì ngoài mục đích tự vệ, nó còn là phương tiện mà người được trang bị có quyền sử dụng để thực thi nhiệm vụ do pháp luật liên bang quy định nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của công dân, tài sản, tài nguyên, môi trường, hàng hóa có giá trị, hàng hóa nguy hiểm và các đối tượng đặc biệt. Tuy nhiên với mục đích chủ yếu là vô hiệu hóa khả năng thực hiện hành vi nguy hiểm của đối tượng chứ không nhằm tước đoạt sinh mạng của đối tượng (thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước), nên thông số kỹ thuật của vũ khí thuộc nhóm này được giới hạn ở năng lượng nén (cả nòng trơn và có rãnh xoắn) không được quá 300 Jun, chỉ bắn được từng viên, hộp tiếp đạn không quá 10 viên, đầu đạn không được làm bằng vật liệu cứng, nếu là loại nòng có rãnh xoắn phải có sự khác biệt với vũ khí chiến đấu về loại đạn và cỡ đạn.
Nhóm vũ khí chiến đấu cầm tay: Với mục đích sát thương mục tiêu hiệu quả nhất (tiêu diệt nhanh gọn đối tượng) nên vũ khí thuộc nhóm này có mức độ nguy hiểm rất cao. Luật này chỉ xác định các chủ thể được sử dụngvũ khí chiến đấu cầm tay, còn những vấn đề cụ thể do một văn bản luật khác của Liên bang Nga điều chỉnh. Các chủ thể được sử dụng vũ khí chiến đấu cầm tay chủ yếu là lực lượng vũ trang của Nhà nước. Theo nguyên tắc chung thì lực lượng vũ trang của Nhà nước được quyền sử dụng cả ba nhóm vũ khí nêu trên, nhưng pháp nhân và thể nhân ngoài lực lượng vũ trang thì chỉ được quyền sở hữu vũ khí dân dụng và công vụ, nếu có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Quản lý vũ khí và sử dụng vũ khí :
Quản lý vũ khí: Vũ khí là nguồn nguy hiểm đối với sức khỏe và tính mạng của con người, vì vậy Liên bang Nga rất coi trọng công tác quản lý vũ khí dân dụng và công vụ, theo đó tất cả các loại vũ khí dân dụng, công vụ được sản xuất trong nước hay được đưa vào hoặc đưa ra khỏi lãnh thổ Liên bang Nga đều phải có giấy chứng nhận do Ủy ban Nhà nước liên bang về tiêu chuẩn, quy chuẩn cấp. Bên cạnh đó, Liên bang Nga còn xây dựng Niên giám quốc gia về vũ khí dân dụng và công vụ, trong đó hệ thống hóa và cập nhật liên tục các kiểu loại vũ khí dân dụng và công vụ (kèm theo tính năng kỹ thuật) được đưa vào cũng như bị loại ra khỏi Niên giám. Việc sở hữu vũ khí dân dụng và công vụ ở Liên bang Nga đòi hỏi phải có Giấy phép sở hữu và Luật cũng quy định những chủ thể được quyền sở hữu vũ khí. Đối với công dân Liên bang Nga, Luật quy định rõ các điều kiện để có quyền sở hữu vũ khí như độ tuổi và sức khỏe. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sửa chữa, tân trang, sưu tập, triển lãm, mua bán, tặng cho, tặng thưởng, thừa kế, bảo quản, vận chuyển, tiêu hủy vũ khí và đạn đều được quy định cụ thể trong Luật. Đặc biệt, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan đến quản lý nhà nước về vũ khí dân dụng và công vụ được quy định rất rõ ràng để tránh chồng chéo hoặc bỏ sót.
Sử dụng vũ khí: Đây là nội dung quan trọng nhất của sở hữu vũ khí, vì ngoại trừ việc trang trí cho các bộ trang phục dân tộc vào ngày lễ hội hoặc trưng bày trong nhà theo truyền thống thì người sở hữu vũ khí đều có chung mục đích là tự vệ. Do đó, việc sử dụng vũ khí khi nào và theo trình tự, thủ tục thế nào để không vi phạm pháp luật là vấn đề không thể thiếu trong Luật. Theo quy định của Luật, công dân Nga có quyền “sử dụng vũ khí mà mình sở hữu hợp pháp để bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản của mình trong trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc tình thế cấp thiết; phải thực hiện nổ súng cảnh cáo trước, nếu đối tượng không dừng hành động đang trực tiếp gây nguy hiểm cho mình thì mới nổ súng vào đối tượng, trừ trường hợp nếu nổ súng chậm sẽ gây nguy hiểm tính mạng cho người khác hoặc có thể gây hậu quả nghiêm trọng khác. Việc sử dụng vũ khí trong trường hợp phòng vệ chính đáng không được gây thiệt hại cho người thứ ba. Cấm sử dụng vũ khí đối với phụ nữ, người có dấu hiệu khuyết tật rõ ràng, người vị thành niên, người mà độ tuổi chưa hoặc không rõ, trừ trường hợp những đối tượng này tấn công vũ trang hoặc tấn công tập thể. Trong mỗi trường hợp sử dụng vũ khí, người sử dụng vũ khí phải nhanh chóng (muộn nhất là trong ngày) phải thông báo cho cơ quan Nội vụ nơi cư trú về việc mình sử dụng vũ khí”.
Đối chiếu quy định trên với quy định hiện hành của Việt Nam về sử dụng vũ khí đối với người thi hành công vụ (pháp luật nước ta không cho phép cá nhân sở hữu vũ khí) về cơ bản không có gì khác biệt. Nhưng thực tế, người thi hành công vụ ở nước ta rất lúng túng khi sử dụng vũ khí trong trường hợp phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết. Theo thông tin chung, đa số người thi hành công vụ được trang bị vũ khí đều do dự, không dám sử dụng; một số trường hợp sử dụng nhưng lại thường gây hậu quả ngoài ý muốn, dẫn đến bản thân phải chịu trách nhiệm pháp lý với lỗi “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”. Vì sao ở Liên bang Nga, quy định này được thực hiện thuận lợi, không có gì khó khăn? Câu trả lời có thể rút ra từ những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Một là, cơ sở pháp lý về quản lý, sử dụng vũ khí được ban hành đầy đủ, rõ ràng, chặt chẽ và khả thi. Người dân cũng như người thi hành công vụ đều nắm vững các quy định của pháp luật cũng như có hiểu biết cần thiết về tính năng kỹ thuật của vũ khí, kỹ năng sử dụng vũ khí và các biện pháp bảo đảm an toàn vũ khí. Nói rộng hơn là họ hoàn toàn làm chủ được loại vũ khí mà họ sở hữu hợp pháp.
Hai là, vũ khí dân dụng và công vụ của Liên bang Nga được sản xuất trên cơ sở quản lý chặt chẽ về mặt tính năng kỹ thuật, trong đó quan trọng nhất là khả năng sát thương mục tiêu (mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng con người) phải tuân theo tiêu chuẩn, quy chuẩn của Bộ Bảo vệ sức khỏe Liên bang Nga. Cụ thể là vũ khí dân dụng, công vụ có mức độ nguy hiểm thấp hơn vũ khí chiến đấu cầm tay trang bị cho lực lượng vũ trang nhà nước.
2. Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và vật liệu nổ công nghiệp ở Việt Nam
Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) hiện hành có liên quan (các nghị định, thông tư), chúng tôi thấy rằng, nếu xây dựng một văn bản QPPL tầm Pháp lệnh để điều chỉnh lĩnh vực quản lý, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và vật liệu nổ công nghiệp ở Việt Nam, thì chúng ta cần phải quan tâm đến bốn nhóm vấn đề lớn:
Thứ nhất, cần xác định xem có tiếp tục kế thừa phạm vi điều chỉnh của các văn bản QPPL hiện hành bao gồm cả ba đối tượng: vũ khí, công cụ hỗ trợ (CCHT) và vật liệu nổ công nghiệp (VLNCN)? Xét về bản chất, vũ khí, CCHT hoàn toàn khác VLNCN. VLNCN là “hóa chất hoặc hỗn hợp hóa chất được sản xuất, sử dụng nhằm tạo ra phản ứng nổ dưới tác động của kích thích cơ, nhiệt, hóa hoặc điện và các phụ kiện nổ dùng cho mục đích dân sự” (Nghị định 47 của Chính phủ), còn vũ khí, CCHT được chế tạo để sát thương mục tiêu sống và các mục tiêu tương tự. Do đó, không thể đặt chung ba đối tượng này trong phạm vi điều chỉnh của một văn bản QPPL dự kiến ban hành (sau đây gọi là dự án Pháp lệnh). Thực tế đã chỉ ra những bất hợp lý khi đưa VLNCN vào Nghị định 47 (ban hành năm 1996) nên năm 2009, Chính phủ đã tách VLNCN và ban hành một nghị định riêng để điều chỉnh.
Nếu theo hướng đó, phạm vi điều chỉnh của dự án Pháp lệnh cần ban hành sẽ còn lại vũ khí và CCHT. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là có nhất thiết phải tách CCHT thành một khái niệm độc lập bên cạnh vũ khí như trong các văn bản QPPL hiện hành hay không? Tham khảo Luật của Liên bang Nga, hợp lý nhất là dùng chung một khái niệm “vũ khí” bao gồm các loại súng cầm tay và công cụ hỗ trợ, vì xét đến cùng, súng các loại và CCHT và đều có chung mục đích sử dụng là gây sát thương cho mục tiêu sống và các mục tiêu tương tự. 
Toàn bộ vũ khí chiến đấu cầm tay và các loại vũ khí khác do Quân đội quản lý không thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án Pháp lệnh này mà sẽ được điều chỉnh bằng một văn bản QPPL khác.
Thứ hai, cần thiết phải có sự khác nhau về tính năng, tác dụng giữa vũ khí cầm tay của người thực thi nhiệm vụ thuộc lĩnh vực dân dụng, công vụ và vũ khí cầm tay sử dụng trong chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân.
Ở nước ta hiện nay, do chưa sản xuất được vũ khí dân sự và công vụ riêng nên vũ khí mà các lực lượng chuyên trách như kiểm lâm, cảnh sát trật tự, cảnh sát hỗ trợ tư pháp và một số lực lượng bảo vệ chuyên trách khác đang sử dụng đều là vũ khí quân dụng (súng AK, K59, K54… mà Liên bang Nga xếp vào nhóm vũ khí chiến đấu). Trang bị như vậy chẳng khác gì dùng “dao bầu để làm thịt chim sẻ”, vừa không kinh tế lại làm mất đi tính nhân đạo của Nhà nước. Ai cũng biết rằng, để trấn áp một tên cướp hay lâm tặc hung hãn thì chỉ cần vô hiệu hóa khả năng thực hiện hành nguy hiểm chứ không cần tước đi tính mạng của họ. Nhưng rất tiếc, trong khi thi hành công vụ, một số người sử dụng vũ khí đã gây ra cái chết cho đối tượng (ngoài ý muốn). Trong tình huống này, có nguyên nhân khách quan thuộc về tính năng kỹ thuật của vũ khí. Nếu như chúng ta cũng trang bị vũ khí dân dụng hoặc công vụ chứ không phải là vũ khí chiến đấu như ở Liên bang Nga thì chắc chắn có thể tránh được những sự cố không mong muốn đó. Tiếc rằng, chúng ta lại trang bị cho người thi hành công vụ súng tiểu liên AK là vũ khí chiến đấu nên phát sinh vấn đề ngoài ý muốn là khó tránh khỏi. Bởi vì với mục đích tiêu diệt nhanh, gọn mục tiêu, ở cự ly xa nên súng AK được chế tạo với các tính năng khác hẳn so với vũ khí công vụ và dân dụng như tự động lên đạn, hộp tiếp đạn có dung lượng tới 30 viên, tốc độ bắn đạt 100 viên/phút, tầm sát thương hiệu quả 800 mét. Nòng có 4 rãnh xoắn với bước xoắn 235mm tạo ra sức căng và sức công phá của đầu đạn rất lớn khi chạm mục tiêu (điểm vào ở mục tiêu chỉ bằng đầu đũa nhưng điểm ra tương đương miệng bát đơm cơm). Khi bắn liên thanh, do tác động phản lực, nòng súng luôn luôn hướng lên trên, do đó người thi hành công vụ mặc dù chỉ muốn bắn vào phần chân hoặc tay nhưng do phản lực khiến viên đạn tiếp theo có thể đã găm lên phần thân trên hoặc đầu của đối tượng.
Từ thực tế đó, trên cơ sở tham khảo Luật của Liên bang Nga, dự án Pháp lệnh này nên quy định rõ các lực lượng chuyên trách giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội, lực lượng bảo vệ trong một số lĩnh vực đặc thù chỉ được trang bị và sử dụng vũ khí dân dụng, công vụ (trong đó có công cụ hỗ trợ).
Thứ ba,sử dụng vũ khí trong khi thi hành công vụ phải là vấn đề quan trọng nhất của dự án Pháp lệnh. Tuy rằng, trên thực tế, vấn đề này đã được quy định trong các văn bản QPPL hiện hành có liên quan và so sánh với quy định của Luật Liên bang Nga LBN thực chất không thấy có gì khác biệt.
Như đã nói, nếu chúng ta giải quyết được việc thay thế vũ khí chiến đấu cầm tay của các lực lượng giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội và lực lượng bảo vệ trong một số lĩnh vực đặc thù bằng vũ khí dân dụng, công vụ thì sẽ cơ bản giải quyết được vấn đề này. Vì về tính năng kỹ thuật, đạn dùng cho súng dân dụng và công vụ không có sức phá hủy lớn, nên ít khi dẫn đến hậu quả chết người, trừ trường hợp đạn trúng vào những vị trí hiểm yếu trên cơ thể. Đây là vấn đề khác biệt giữa vũ khí mà Liên bang Nga cho phép dùng trong dân dụng, công vụ với vũ khí chiến đấu cầm tay dùng trong lực lượng vũ trang. Khi người thi hành công vụ biết rằng, vũ khí mà họ sử dụng chỉ gây sát thương, làm mất khả năng tấn công hoặc hành vi nguy hiểm của đối tượng thì họ sẽ tự tin hơn trong sử dụng và đó chính là yếu tố hạn chế những trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Để bảo đảm việc sử dụng vũ khí của lực lượng giữ gìn trật tự an toàn xã hội, lực lượng bảo vệ trong một số lĩnh vực đặc thù có hiệu quả, đồng thời thể hiện rõ tính nhân đạo, nhân văn của Nhà nước ta, Pháp lệnh cần quy định cơ quan nhà nước có trách nhiệm triển khai nghiên cứu sản xuất vũ khí dân dụng và công vụ. Khi Pháp lệnh được thông qua, cần có bước đi để bảo đảm không gây khó khăn cho các lực lượng thực thi công vụ được trang bị vũ khí. Trước mắt, Nhà nước nên cho nhập khẩu một số chủng loại vũ khí dân dụng, công vụ để cấp đổi cho những lực lượng được giao nhiệm vụ quan trọng trước. Về lâu dài, Nhà nước cần giao cho ngành công nghiệp quốc phòng nghiên cứu chế tạo vũ khí dân dụng và công vụ theo các tiêu chuẩn có tính chất phổ biến trên thế giới để trang bị cho các đối tượng được phép lưu hành và sử dụng theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, quản lý nhà nước đối với vũ khí dân dụng và công vụ vẫn nên quy định như hiện nay, đó là Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thống nhất quản lý, thực hiện đặt hàng từ Bộ Quốc phòng và cấp phát hoặc cung nhượng cho các chủ thể được pháp luật cho phép sở hữu vũ khí./.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 23(184), tháng 12/2010)


Thống kê truy cập

32834906

Tổng truy cập