Hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá

01/11/2012

ThS. KIM THỊ HẠNH

Trưởng phòng Công tác Đại biểu, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh

Pháp luật về chống bán phá giá (CBPG) của Việt Nam được hình thành trong giai đoạn nước ta thực hiện những nỗ lực nước rút để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Mục tiêu được đặt ra đối với chế định này là hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam cho phù hợp với quy định của WTO và sẵn sàng cho thời kỳ hội nhập sau khi gia nhập tổ chức này. Trước đó, không có bất kỳ một tiền lệ hay một quy định nào điều chỉnh cụ thể vấn đề này. Trên thực tế, khi soạn thảo các văn bản thuộc chế định này, các cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo, các cơ quan thẩm tra, các nhà tư vấn trong và ngoài nước đều dựa trên những quy định về CBPG của WTO và một số nước thành viên WTO. Về cơ bản, tất cả các quy định của pháp luật Việt Nam về CBPG đều tuân thủ các quy định tại Hiệp định ADA[1]. Vì thế, về mặt nguyên tắc, Việt Nam không cần điều chỉnh, sửa đổi các văn bản hiện hành về CBPG để tuân thủ cam kết WTO.
 Untitled_534.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
Tuy nhiên, các quy định pháp luật về CBPG của Việt Nam còn nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật[2], nội dung các quy định này còn mang tính định “khung”, điều chỉnh những vấn đề thuộc về nguyên tắc mà chưa đi sâu vào những vấn đề mang tính chất chi tiết, kỹ thuật[3]. Đặc biệt, quy định cách tính biên độ phá giá hay xác định mức độ thiệt hại theo Điều 2 và Điều 3 của Pháp lệnh Chống bán phá giá (PL CBPG) năm 2004 cũng không thể hiện rõ có cho phép hay cấm sử dụng phương pháp Zeroing để tính biên độ phá giá trong quá trình điều tra. Vì vậy, khi các quy định này được áp dụng vào một vụ việc cụ thể, có thể dẫn tới việc vi phạm các nguyên tắc liên quan của WTO[4]. Do đó, các quy định trong PL CBPG nói chung, quy định về cách tính biên độ phá giá nói riêng cần được nghiên cứu, hoàn thiện theo hướng bổ sung quy định chi tiết cho những quy định “khung” hiện tại, nhất là quy định về cách tính biên độ phá giá, yếu tố cốt lõi nhất của vấn đề xác định thiệt hại.
Thông qua việc nghiên cứu 04 vụ kiện liên quan trực tiếp đến phương pháp Zeroing mang tính điển hình, có sự tham gia trực tiếp của Việt Nam hoặc của quốc gia có điểm tương đồng với Việt Nam[5], chúng tôi nhận thấy những quy định mang tính chất kỹ thuật trong thực tiễn tính biên độ bán phá giá chưa được điều chỉnh bởi các quy định của Hiệp định ADA và PLCBPG của Việt Nam, kinh nghiệm đối phó của các quốc gia khi tham gia các vụ kiện liên quan đến phương pháp Zeroing qua thực tiễn đối phó với các vụ tranh chấp về bán phá giá của Việt Nam trong thời gian qua còn rất hạn chế.
Mặt khác, chúng tôi thấy Việt Nam có thể vận dụng các quy định pháp luật về CBPG của WTO và Việt Nam theo hướng bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.Tuy nhiên vấn đề này trong thời gian qua còn bỏ ngỏ do Việt Nam mới gia nhập WTO, kinh nghiệm pháp lý còn hạn chế, việc vận dụng sao cho linh hoạt các quy định về bán phá giá để vừa đảm bảo tốt nhất quyền lợi của Việt Nam, vừa tránh việc bị các nước Thành viên khác kiện ra WTO không phải là dễ dàng. Kinh nghiệm kiểu “thử - sai” như những nước có hoàn cảnh tương tự[6] rất khó áp dụng lại. Bởi, hiện nay nhiều nước đã sử dụng tương đối nhuần nhuyễn công cụ giải quyết tranh chấp trong WTO để kiện về các vụ việc điều tra CBPG sai nguyên tắc[7].
Đồng thời, cùng với sự phát triển ngày càng nhanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã và đang bị đặt trong tình trạng có nguy cơ tiềm ẩn bị kiện bán phá giá. Đặc biệt, thời gian vừa qua các vụ kiện nổi bật tại Hoa Kỳ (mặt hàng cá tra, basa, tôm) và Liên minh Châu Âu (mặt hàng da giày) đã gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Chính vì vậy, điều quan trọng và cần thiết đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và ngành sản xuất của Việt Nam là học hỏi không chỉ từ những vụ kiện mà Việt Nam tham gia với tư cách bị đơn, mà còn từ những vụ kiện liên quan đến các quốc gia khác. Bởi, rút ra bài học kinh nghiệm từ những quốc gia khác cũng như nhận biết và hiểu rõ những vấn đề mà các quốc gia khác đã gặp phải sẽ là “vũ khí” rất hữu ích cho Việt Nam khi phải đương đầu với những vụ kiện CBPG có quy mô lớn và phức tạp.
Mặt khác, xuất phát từ đặc điểm nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển và đang hội nhập sâu vào thị trường thương mại quốc tế, ngoài việc phải đối mặt với những vụ kiện bán phá giá ngoài quốc gia, các doanh nghiệp Việt Nam còn phải đối phó với những hành vi cạnh tranh thương mại không lành mạnh ngay chính thị trường nội địa cũng đang diễn biến khá phức tạp. Theo các cam kết WTO, thị trường Việt Nam đang mở rộng dần cho hàng hóa nước ngoài, vì vậy, nguy cơ hàng nước ngoài nhập khẩu bán phá giá vào Việt Nam gây thiệt hại cho sản xuất nội địa cũng từ đó tăng lên.
Nhu cầu phòng vệ chính đáng đối với hàng hóa Việt Nam trước sức ép cạnh tranh không lành mạnh của hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài được đề cập trong văn bản số 1053/TTg-KTTH của Thủ tướng Chính phủ vào tháng 7/2006 về việc chỉ đạo Bộ trưởng Bộ Thương mại trao đổi với các bộ, ngành liên quan để phê duyệt đề án “Phòng vệ chính đáng đối với hàng hóa trong nước”. Trong công văn này, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành cần nghiên cứu và đề xuất các biện pháp phòng vệ chính đáng đối với hàng hóa sản xuất trong nước phù hợp với các quy định của WTO và các cam kết mà Việt Nam đã ký kết như: đối xử tối huệ quốc, các biện pháp phòng vệ, CBPG, chống trợ cấp, cơ chế kiểm soát thu nhập… Việc bảo vệ ngành sản xuất trong nước không chỉ nhằm duy trì thị phần trên thị trường trong nước mà còn tạo môi trường lành mạnh, an toàn để các doanh nghiệp nội địa phát triển các ngành, nghề có lợi thế so sánh khi tham gia thị trường chung. Tuy nhiên, việc các ngành sản xuất của Việt Nam có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu để có thể nộp đơn khởi kiện thành công ở trong nước vẫn còn rất mơ hồ,áp lực về chi phí tiến hành điều tra và xử lý vụ việc, chi phí tham gia vụ kiện có thể tạo ra những khó khăn cho việc áp dụng pháp luật CBPG; công tác thống kê, lưu trữ số liệu hàng hóa nhập khẩu cũng như những thống kê toàn cảnh về thực trạng sản xuất trong nước, những thiệt hại đã và đang phải chịu từ việc hàng hóa nước ngoài nhập khẩu bán phá giá và thậm chí cả kiến thức chung về CBPG ở các doanh nghiệp, hiệp hội còn hạn chế.
Trong khi đó, PL CBPG Việt Nam sau hơn bảy năm có hiệu lực vẫn chưa được áp dụng trong thực tiễn do các quy định còn đơn giản và sơ khai, hệ thống cơ quan điều tra và xử lý vụ việc CBPG còn yếu về nhân lực và kinh nghiệm áp dụng pháp luật, quan hệ kinh tế - chính trị song phương và đa phương có thể ảnh hưởng đến quyết tâm xử lý vụ việc CBPG của doanh nghiệp và của Nhà nước, sự yếu kém trong việc quản lý xuất nhập khẩu có thể ảnh hưởng đến công tác điều tra và áp dụng các biện pháp CBPG đối với hàng hóa nhập khẩu bán phá giá. Thực tế chứng minh, mặc dù đã có nghi vấn về việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá, song các doanh nghiệp Việt Nam chưa nộp đơn khiếu nại và cơ quan có thẩm quyền chưa ra quyết định điều tra về vụ việc CBPG[8].
Xuất phát từ nhận định nhu cầu áp dụng pháp luật CBPG là đòi hỏi khách quan của quá trình toàn cầu hóa, là xu thế chung của các nước và cũng là nhu cầu thực tế của Việt Nam để bảo vệ ngành sản xuất trong nước, chúng tôi cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của PL CBPG nói chung, quy định về cách tính biên độ phá giá nói riêng cần được quan tâm và nhanh chóng thực hiện. Nhà nước nên xem đây là một mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài đối với Việt Nam trong công tác hoàn thiện các quy định pháp luật của Việt Nam trên hai phương diện:
 Thứ nhất, các quy định này đảm bảo là công cụ ngăn chặn, xử lý các hành vi bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài vì những mục đích cạnh tranh thương mại không lành mạnh, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa.
Thứ hai, các quy định này phải là phương tiện đấu tranh chống lại sự lạm dụng các biện pháp CBPG đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Vì vậy, thiết nghĩ Việt Nam cần sớm tổ chức sơ kết hoặc tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện một số văn bản sau: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá X về một số chủ trương chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO; Nghị quyết 16/2007/NQ-CP ngày 27/02/2007 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá X về một số chủ trương chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO; Chỉ thị số 20/2005/CT-TTg ngày 09/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc chủ động phòng chống các vụ kiện thương mại nước ngoài.
Việc sơ kết, tổng kết nói trên nhằm đánh giá những thuận lợi và khó khăn qua một thời gian thực hiện các chiến lược, nội dung chỉ đạo này để kịp thời sửa đổi, bổ sung một số giải pháp về cải cách thể chế. Đồng thời, để nâng cao chất lượng việc ban hành một số quy định pháp lý nói chung, các quy định để cụ thể hóa và thực thi các quy định của WTO, Hiệp định ADA trong lĩnh vực bán phá giá vào Việt Nam nói riêng, tránh tình trạng văn bản đã có hiệu lực pháp luật nhưng không thể áp dụng vào thực tiễn như hiện nay. Cụ thể như sau:
PL CBPG năm 2004 là một ví dụ điển hình cho đánh giá nêu trên trong thực tiễn, do pháp luật CBPG được xây dựng từ nhu cầu gia nhập WTO mà không từ nhu cầu áp dụng trong thực tế. Các quy định trong PL CBPG được xây dựng từ kết quả tiếp thu một cách đơn giản, chưa đầy đủ pháp luật WTO và pháp luật các nước nên các vấn đề lý luận về vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ trong khoa học pháp lý[9]. Nội dung chính của Pháp lệnh chỉ dừng lại ở việc liệt kê căn cứ xác định bán phá giá và xác định thiệt hại đáng kể mà chưa có những giải thích cần thiết để hướng dẫn cho các cơ quan thực thi và các bên liên quan trong những vụ việc cụ thể. Những quy định này về cơ bản phù hợp với pháp luật của WTO. Nhưng xét về mặt chi tiết thì một số quy định chưa đạt được độ chi tiết như quy định tương ứng của WTO, cụ thể như sau:
- Quy định về nội dung cụ thể của các phương pháp tính giá thông thường trong điều tra CBPG: thiếu các quy định về việc xác định điều kiện và cách thức tính giá thông thường của từng phương pháp… theo Điều 2 Hiệp định ADA;
- Quy định về nội dung cụ thể của phương pháp xác định thiệt hại do việc nhập khẩu hàng hóa bán phá giá gây ra cho ngành sản xuất nội địa: thiếu quy định về việc xác định thiệt hại của ngành sản xuất vùng, về nghĩa vụ bắt buộc[10] phải xem xét các yếu tố khác cùng gây ra thiệt hại ngoài việc hàng nhập khẩu bán phá giá
- Các quy định hiện hành chưa giải thích chi tiết về việc xác định giá bán trong các giao dịch xuất khẩu không đáng tin cậy, về quan hệ liên kết giữa doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài và nhà nhập khẩu Việt Nam, chưa đưa ra phương pháp sẽ áp dụng phương pháp nào để tính biên độ phá giá (có cho hoặc không cho phép sử dụng phương pháp Zeroing)…
Qua đó nhận thấy, các quy định của PL CBPG năm 2004 nói chung, quy định về cách tính biên độ phá giá nói riêng còn mang tính chất “khung” trong khi thực tiễn áp dụng pháp luật đòi hỏi phải dự liệu từng căn cứ, từng chi tiết cụ thể và những tình huống có thể xảy ra khi tính toán giá thông thường; giá xuất khẩu. Vì thế, PL CBPG đã được ban hành và có hiệu lực từ 01/10/2004 nhưng chưa được áp dụng trên thực tế sau bảy năm ban hành. Có lẽ, một trong những nguyên nhân chính là do khung pháp lý về CBPG của chúng ta chưa hoàn thiện nên chưa thể ứng dụng vào thực tiễn.
Tóm lại, dù kinh tế thế giới đang đứng trước những thách thức do thời kỳ hậu khủng hoảng nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài vẫn tăng mạnh so với cùng kỳ, nhất là tại thị trường của Hoa Kỳ và EU. Đồng hành với thuận lợi này là sự gia tăng các vụ kiện hàng hóa Việt Nam bán phá giá tại các thị trường xuất khẩu. Có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính xuất phát từ việc các quốc gia nhập khẩu bảo vệ một số ít các nhà sản xuất nội địa có năng lực cạnh tranh yếu so với các đối thủ nước ngoài, Hoa Kỳ là một điển hình sinh động. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, dù xuất khẩu mặt hàng nào, đến thị trường nào cũng cần hết sức tỉnh táo, có kế hoạch đối phó với nguy cơ bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Các doanh nghiệp cần tính đến chiến lược phát triển đa dạng thị trường và chuyển dần sang cạnh tranh bằng chất lượng thay vì bằng giá. Trước mắt, khi những yếu tố này chưa thể giải quyết triệt để, doanh nghiệp cần thường xuyên quan sát thị trường (kết hợp với các nhà nhập khẩu) để phát hiện nguy cơ bị kiện CBPG sớm, từ đó chủ động phòng tránh, đối phó. Kế đến, trong mọi vụ kiện, việc kê khai các thông tin chi tiết về sản xuất là yếu tố mang tính quyết định khi xác định mức thuế. Vì vậy, doanh nghiệp cần quan tâm thực hiện đúng và đầy đủ chế độ sổ sách kế toán. Ngoài ra, dù các vụ kiện có thể không liên quan đến việc hiểu biết pháp luật thị trường nước ngoài, nhưng để đối phó với các vụ kiện này thì việc hiểu biết pháp luật để từ đó có hành động đúng là rất quan trọng. Do đó, doanh nghiệp cần hiểu đúng về bản chất của nguy cơ này và coi đó như một loại rủi ro trong kinh doanh để có chiến lược đối phó thích hợp và kịp thời.
Một yếu tố đặc biệt quan trọng cần quan tâm nữa là sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời và có trách nhiệm của cả Nhà nước và doanh nghiệp. Đây là yếu tố căn bản, có ảnh hưởng lớn đến kết quả cuối cùng của việc tham gia vụ kiện. Trong giai đoạn này, khi Nhà nước cần có thời gian xem xét và sửa đổi các quy định về mặt chính sách, pháp luật liên quan đến vấn đề đảm bảo thực thi đúng các quy định của WTO, Hiệp định ADA; khai thác, sử dụng và phát huy những ưu điểm của những quy định này về mặt cơ chế, chính sách, thì Chính phủ và doanh nghiệp cũng cần xây dựng một cơ chế linh hoạt, khoa học với sự phân công trách nhiệm cụ thể giữa các cơ quan liên quan và huy động nguồn lực để có thể phản ứng kịp thời, hiệu quả trong những vụ kiện trong khuôn khổ WTO nói chung và vụ kiện liên quan đến bán phá giá nói riêng.
Thiết nghĩ, việc chúng ta cần bổ sung vào chương trình xây dựng luật của Quốc hội khóa XIII, nhiệm kỳ 2011-2016 nội dung sửa đổi, bổ sung PL CBPG năm 2004 dưới hình thức Luật CBPG[11].
 

[1]Điều này phần nào được khẳng định bởi chính ý kiến của đại diện phía Việt Nam trong quá trình đàm phán WTO về vấn đề này, được ghi nhận trong Báo cáo của Ban công tác “Theo quan điểm của Việt Nam, pháp luật mới về các biện pháp CBPG và chống trợ cấp của Việt Nam tuân thủ hoàn toàn với Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng và Hiệp định về CBPG của WTO”.
[2] Định nghĩa về bán phá giá được quy đinh tại khoản 3, Điều 4 Pháp lệnh Giá năm 2002; quy định về các biện pháp chống bán phá giá; thủ tục, nội dung điều tra để áp dụng và việc áp dụng các biện pháp đó đối với hàng hóa bị bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam được quy định trong PL CBPG năm 2004.
[3] Một số ví dụ về các quy định khung trong pháp luật về CBPG.
Ví dụ 1: Quy định về chứng cứ sử dụng trong điều tra chống bán phá giá.
Hiện tại các quy định chỉ đơn thuần dừng lại ở định nghĩa “chứng cứ là những gì có thật” được cơ quan điều tra sử dụng để xác định sự tồn tại của các điều kiện cần có để áp dụng các biện pháp liên quan (Điều 3 Nghị định 90/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam ). Tuy nhiên, với quy định này thì vẫn chưa rõ khi nào một chứng cứ là “có thật”? Trường hợp có nhiều hơn một nguồn chứng cứ với nội dung không giống nhau về cùng một vấn đề thì nguyên tắc lựa chọn chứng cứ có giá trị ưu tiên như thế nào, khi nào một chứng cứ bị xem là có nghi ngờ cần được xác minh lại?...
Ví dụ 2: Quy định về việc xác định giá thông thường, giá xuất khẩu “tự tính toán”.
Theo quy định, giá thông thường và giá xuất khẩu có thể được xác định theo một số phương thức. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê các phương thức mà chưa nêu cụ thể các nội dung phương pháp tính toán (các thành tố tính toán, các yếu tố điều chỉnh…).
[4] Vấn đề đó có thể là:
- Thiếu các quy chuẩn cụ thể khiến các chủ thể (đặc biệt là cơ quan điều tra) có hành động tùy nghi và kết quả là gây ra tác động hoặc làm phương hại đến việc thực hiện các quy định có liên quan của WTO. Ví dụ: Nếu không có quy định cụ thể về bảng câu hỏi, về quy trình phân tích đánh giá các yếu tố liên quan, việc điều tra có thể bị kéo dài, do đó vi phạm quy định về thời hạn của WTO.
- Thiếu các quy định cụ thể đảm bảo tính khả đoán và ổn định của quá trình điều tra có thể là một nguy cơ dẫn tới thiếu minh bạch, từ đó ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan, và do đó vi phạm nguyên tắc liên quan của WTO…Ví dụ: Nếu không có quy định về cách thức tiếp cận thông tin thì quyền lợi của các bên liên quan sẽ bị ảnh hưởng (do tiếp cận thông tin chậm, không đầy đủ nên khó chuẩn bị lập luận và chứng cứ để tự bảo vệ mình chẳng hạn).
[5]Vụ kiện EC - Thuế CBPG áp dụng đối với khăn lanh trải giường cotton nhập khẩu từ Ấn Độ (WT/DS 141); Vụ kiện Hoa Kỳ - Các biện pháp chống bán phá giá đối với tôm nước ấm và đông lạnh nhập khẩu từ Thái Lan (WT/DS343); Vụ kiện Hoa Kỳ - Việc sử dụng phương pháp quy về không (Zeroing) trong các cuộc điều tra CBPG đối với các sản phẩm thép nhập khẩu từ Hàn Quốc (WT/DS402); Vụ kiện Hoa kỳ - Các biện pháp CBPG đối với sản phẩm tôm nước ấm và đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam (WT/DS404) 
[6] Ví dụ Mexico đã từng tiến hành khá nhiều vụ kiện chống bán phá giá sai nguyên tắc. Trong giai đoạn đầu, điều này thực hiện khá êm thấm, nhưng trong giai đoạn sau đó, nước này bị các thành viên khác liên tiếp khiếu nại, khởi kiện hoặc đe doạ khởi kiện ra WTO về các vi phạm, khi đó Mexico đã thu được một số kinh nghiệm và thực hiện việc điều chỉnh pháp luật và thực tiễn tương ứng.
[7] Xem Phụ lục 1.
[8]Nguyễn Ngọc Sơn (2011),Pháp luật CBPG hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM.
[9]Nguyễn Ngọc Sơn (2011),Pháp luật CBPG hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam, Tlđd
[10] Theo quy định hiện tại ở Điều 28.2 Nghị định 90/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ hướng dẫn PLCBPG thì việc xem xét này chỉ được thực hiện “trong trường hợp cần thiết” và không bắt buộc (Cơ quan điều tra “có thể”…).
 
[11] Nghị quyết số 428-TVQH ngày 29/12/2011 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về “Dự kiến Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII” không có nội dung sửa đổi, bổ sung PL CBPG năm 2004.

(Nguồn tin: Bài viết đăng trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 22 (230), tháng 11/2012)