Nâng cao nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội đối với công tác dân nguyện

29/03/2023

TS. LƯU BÌNH NHƯỠNG

ĐBQH khóa XIV, Phó trưởng Ban Dân nguyện.

 Tóm tắt: Trong phạm vi bài viết, tác giả phân tích khái niệm, bản chất, vai trò, ý nghĩa của dân nguyện. Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá khái quát thực trạng và kiến nghị giải pháp nhằm góp phần nâng cao nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội đối với công tác dân nguyện trong thời gian tới.
Từ khoá: Dân nguyện, công tác dân nguyện.
Abstract: Within the scope of the article, the author provides an analysis of the concept, nature, role, and meaning of People's Aspirations. On that basis, the author also provides assessments in brief of the current situation of and a number of recommendations to raise the awareness about the roles, functions and tasks of the National Assembly for the People’s Aspiration activities in the coming time.
Keywords: People's Aspiration; People's Aspiration activities.
 IMG-4214.jpg
Đoàn giám sát của UBTVQH làm việc với Bộ Tư pháp về công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo (Ảnh: BDN)
1. Khái niệm, bản chất, vai trò, ý nghĩa của dân nguyện
- Khái niệm dân nguyện
Dân nguyện là vấn đề có thể được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh, đó là:
Dân nguyện là một hiện tượng kinh tế - xã hội.Hiện tượng này xuất hiện và tồn tại cùng với chế độ có Nhà nước, trong đó phía người dân bằng việc trực tiếp hoặc thông qua chủ thể khác, thể hiện nguyện vọng, mong muốn của mình đối với Nhà nước, cơ quan nhà nước về những vấn đề chung của đất nước hoặc/và vấn đề của cá nhân, gia đình.
Về tính chất, các nguyện vọng đó có thể là: (i) sự thỉnh cầu; (ii) sự kiến nghị; (iii) sự yêu cầu.
Về phạm vi có thể là: (i) phạm vi rộng lớn toàn quốc; (ii) phạm vi hẹp ở tầm mức địa phương, khu vực.
Về nội dung, các nguyện vọng, mong muốn được nêu ra có thể là: (i) vấn đề cụ thể về quyền, lợi ích của cá nhân, gia đình, tổ chức, doanh nghiệp; (ii) vấn đề chính sách, pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Nhà nước, quyền và lợi ích, trách nhiệm của công dân và các chủ thể khác.
Dân nguyện là một dạng hoạt động xã hội.Dân nguyện được hiểu là: (i) hoạt động dân nguyện; (ii) hoạt động có tính dân nguyện; (iii) hoạt động của cơ quan dân nguyện, tức là cơ quan thực hiện chính sách, pháp luật về dân nguyện.
Dân nguyện là một vấn đề xã hội. Khi nói về “dân nguyện” người ta thường nghĩ về hoạt động của một chủ thể nhất định hoặc hoạt động của các chủ thể có liên quan trong tiếp nhận, giải quyết những thỉnh cầu, kiến nghị, phản ánh, yêu cầu…của người dân (cử tri, công dân).  
Dân nguyện là một nhóm quan hệ xã hội. Đó là mối quan hệ xã hội giữa cơ quan hoạt động dân nguyện với bên kia là người dân mang theo ý nguyện, nguyện vọng, thỉnh cầu, kiến nghị, yêu cầu, đề nghị đối với cơ quan, cán bộ – công chức nhà nước (xét cho cùng là đặt vấn đề với Nhà nước). Mối quan hệ xã hội này khi chưa được pháp luật điều chỉnh là có tính chất thuần túy xã hội. Khi được pháp luật điều chỉnh thì trở thành quan hệ pháp luật. Ví dụ, quan hệ giữa cử tri yêu cầu Quốc hội trưng cầu ý dân hoặc yêu cầu Quốc hội giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản công, quản lý và sử dụng đất đai…
Dân nguyện là một chế định pháp luật, chế định dân nguyện. Tức là tổng hợp các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội về dân nguyện giữa cơ quan tiếp xúc, tiếp nhận, giải quyết các nguyện vọng, mong muốn, đề đạt, phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo…và một bên là người, cơ quan, tổ chức có nguyện vọng, mong muốn, đề đạt, phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo… đó. Trên cơ sở các quy định của pháp luật về các vấn đề nêu trên mà các bên có các quyền, nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm tương ứng.
- Bản chất của dân nguyện
Với cách hiểu nêu trên, dân nguyện mang bản chất nhân dân và gắn với hoạt động của Nhà nước.Bản chất nhân dân biểu hiện sâu sắc ở việc tham gia chủ động tích cực của cử tri và Nhân dân và đại diện của họ trong các hoạt động của Nhà nước và xã hội. Trong đó, ở chiều thứ nhất, cử tri và Nhân dân (là công dân của Nhà nước) bày tỏ nguyện vọng/ ý nguyện dưới những hình thức khác nhau, kể cả những hình thức do pháp luật quy định (kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo, tố giác…) và những hình thức do cử tri và Nhân dân thấy cần sử dụng để đạt được nguyện vọng nếu không bị pháp luật cấm (ví dụ nhiều công dân viết đơn thỉnh cầu, đơn yêu cầu, đơn kêu cứu, đơn cầu cứu, đơn kiến nghị khẩn cấp, đơn kêu oan...)[1].
Cũng ở chiều thứ nhất, sự tham gia của các đại diện của cử tri và Nhân dân theo Hiến pháp, pháp luật thể hiện rõ bản chất dân nguyện. Qua bầu cử, các cử tri lựa chọn các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân để đại diện cho họ trong các cơ quan dân cử, cơ quan quyền lực của Nhà nước. Theo Hiến pháp, Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vìNhân dân; do đó, cơ chế đại diện của Nhân dân trong bộ máy nhà nước sẽ giúp cho Nhân dân thực hiện được mong muốn, nguyện vọng của mình thông qua các đại diện, gồm cả người đại diện (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân) và cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân). Qua hoạt động tiếp xúc cử tri (tiếp xúc cử tri thường xuyên trước kỳ họp, sau kỳ họp, và tiếp xúc cử tri không thường xuyên, tiếp công dân), cử tri bày tỏ nguyện vọng của mình, kiến nghị/ đề nghị/ yêu cầu đại biểu của mình chuyển tải những vấn đề từ cuộc sống tới các cơ quan hoặc người có thẩm quyền để xem xét, giải quyết, giải trình. Những hoạt động đó đều thể hiện rõ bản chất của dân nguyện là chuyển từ những ý nguyện đơn lẻ, đơn giản, từ cơ sở thành những ý tưởng chính sách, thành vấn đề pháp lý – xã hội – nhà nước tại các cấp khác nhau.
Ở chiều thứ hai, từ phía cơ quan, đại biểu dân cử: Để thực hiện đầy đủ, trọn vẹn và có chất lượng quyền lực nhân dân mà cử tri và Nhân dân gửi gắm, tin tưởng giao cho, các đại biểu dân cử, cơ quan dân cử phải tiếp thu đầy đủ các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của cử tri và Nhân dân. Phải coi việc tiếp nhận đó là công việc chủ yếu, hằng ngày và trong cả nhiệm kỳ thông qua các phương thức, biện pháp và công cụ đã được Hiến pháp, pháp luật quy định. Trong đó, đặc biệt là phương thức “tiếp xúc cử tri” và “tiếp công dân”, với những phạm vi không gian, thời gian và cách tổ chức khác nhau. Kết quả tiếp thu, tiếp nhận phải được các đại biểu dân cử, cơ quan dân cử xem xét phân loại, xử lý, giải quyết trong phạm vi quyền hạn và thực hiện sự đôn đốc, giám sát việc giải quyết của các cơ quan và nhân viên có thẩm quyền. Trong quá trình xử lý các vấn đề nêu trên và các vấn đề có liên quan đến khi kết thúcviệc giải quyết, cán bộ dân cử, đại biểu dân cử phải có sự liên hệ chặt chẽ với cử tri và Nhân dân, báo cáo, giải trình việc thực hiện các nhiệm vụ của cá nhân và cơ quan với cử tri và Nhân dân để họ thực hiện sự giám sát hoạt động của những người mà họ bầu ra.
- Vai trò, ý nghĩa của dân nguyện
Công tác dân nguyện thể hiện quan điểm chính trị của Đảng và tinh thần của Hiến pháp về quyền lực nhân dân trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ và nguyên tắc Dân biết – Dân bàn – Dân làm – Dân giám sát – Dân kiểm tra – Dân thụ hưởng. Quan điểm chính trị tôn trọng và thực hiện công tác lãnh đạo, công tác dân vận, thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và xây dựng chính sách, pháp luật và tổ chức thực thi đường lối, chính sách, pháp luật phải dựa trên trên cơ sở ý chí nguyện vọng của Nhân dân. Đó là vấn đề cốt lõi đã được chuyển tải, hóa thân khá sâu sắc trong công tác dân vận của Đảng và công tác dân nguyện của Nhà nước, trực tiếp là ở Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Hoạt động dân nguyện được thực hiện ở cả cấp cao nhất (Quốc hội) và các cấp khác trong hệ thống cơ quan dân cử (Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã) tạo thành một mạng lưới và thang bậc của hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương tới địa phương; vì vậy, có vai trò góp phần rất quan trọng bảo đảm thực hiện quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước ở tất cả hệ thống các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước cũng như các chủ thể khác (Đảng, Mặt trận, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp…) khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Công tác dân nguyện góp phần khẳng định bản chất Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, đồng thời thể hiện rõ nét tính chất dân chủ của sinh hoạt xã hội trong Nhà nước. Tính chất hai chiều trong quan hệ giữa đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, cũng như của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan của Hội đồng nhân dân với cử tri và Nhân dân là bằng chứng về mối quan hệ gắn bó giữa cơ quan quyền lực nhà nước với người trao gửi quyền lực nhà nước.
Hoạt động dân nguyện góp phần tăng cường mối quan hệ của Quốc hội, Hội đồng nhân dân nói riêng, hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung với cử tri và Nhân dân. Từ đó giúp giải quyết nhiều vấn đề tầm cao (chính sách, pháp luật) và những vấn đề cụ thể trong đời sống xã hội, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn các quan hệ kinh tế, xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, hướng tới xây dựng một quốc gia hưng thịnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2.Thực trạng nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội đối với công tác dân nguyện
-Thực trạng vai trò, chức năng của công tác dân nguyện từ khi thành lập đến nay
Tính đến ngày 17/3/2023, Ban Dân nguyện đã được tròn hai mươi năm hoạt động và phát triển. Đối với một tổ chức, thời gian đó chưa phải là dài nhưng cũng có thể khẳng định sự cần thiết khách quan của một cơ quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ riêng có của mình.
Việc thành lập Ban Dân nguyện đã đánh dấu sự thay đổi về đánh giá tầm quan trọng của công tác dân nguyện của Quốc hội- rằng cần thiết phải có một cơ quan nhất định để đảm nhiệm một phần các công việc liên quan đến nguyện vọng của Nhân dân, coi đây là bước thử nghiệm trên thực tế để tiến tới thành lập một uỷ ban độc lập.Từ trước năm 2003, công tác dân nguyện được hiểu chỉ trong phạm vi tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và lãnh đạo Quốc hội.
Trên thực tế, Quốc hội khoá I có Tiểu Ban Dân nguyện do Ban thường trực Quốc hội thành lập tồn tại từ kỳ họp thứ 6 (tháng 1/1957) đến sau kỳ họp thứ 11 (năm 1959) có trách nhiệm nghiên cứu và phối hợp với các cơ quan của Chính phủ để giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Từ nhiệm kỳ Quốc hội khoá II đến khoá VIII, việc tiếp công dân, xử lý đơn thư được giao cho Văn phòng- cơ quan giúp việc cho Quốc hội đảm nhiệm.
Từ nhiệm kỳ Quốc hội khoá IX đến khoá XI, Uỷ ban thường vụ Quốc hội phân công một Uỷ viên phụ trách công tác dân nguyện. Tuy nhiên, đây chỉ là sự phân công trong nội bộ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, còn về cơ sở pháp lý thì chưa có văn bản pháp luật nào quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ viên thường vụ trong lĩnh vực công tác dân nguyện.
Năm 2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội(UBTVQH) đã quyết định thành lập Ban Dân nguyện, là cơ quan chuyên môn của UBTVQH, có trách nhiệm giúp UBTVQH về công tác dân nguyện.Theo Nghị quyết số 370/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của UBTVQH về việc thành lập Ban Dân nguyện thì Ban Dân nguyện có nhiệm vụ:
1) Tiếp công dân và tổ chức tiếp công dân thường xuyên; Tiếp nhận, phân loại và chuyển đơn thư của công dân gửi Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đến Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội theo lĩnh vực được phân công; Giúp UBTVQH giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo; Tổng hợp tình hình đơn thư và kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo, định kỳ báo cáo UBTVQH;
2) Giúp UBTVQH phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri, tổng hợp báo cáo kết quả việc giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội, kết quả thực hiện những vấn đề mà người bị chất vấn đã hứa xem xét, giải quyết;
3) Chủ trì phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan hướng dẫn Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân về công tác dân nguyện;
4) Thực hiện những nhiệm vụ khác do UBTVQH giao.
Theo Nghị quyết nêu trên thì lĩnh vực công tác dân nguyện của Quốc hội đã được mở rộng thêm, không còn bó hẹp trong phạm vi tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo. Điều này làm cho công tác dân nguyện của Quốc hội tiến gần hơn đến khái niệm dân nguyện với nội hàm là nguyện vọng của Nhân dân.
Sau hơn 5 năm hoạt động, kết quả là sau khi tổng kết công tác của Ban Dân nguyện trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã dẫn đến kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ của Ban này. UBTVQH ban hành Nghị quyết số 695/2008/NQ-UBTVQH12 ngày 15/10/2008, sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 370/2003/NQ-UBTVQH11 về chức năng, nhiệm vụ của Ban Dân nguyệntại Điều 2.
So với Nghị quyết số 370/2003/NQ-UBTVQH11 thì Nghị quyết số 695/2008/NQ-UBTVQH12, UBTVQH đã bổ sung cho Ban Dân nguyện nhiệm vụ mới; đó là giúp UBTVQH giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri. Tuy nhiên, nhiệm vụ này chưa phải đã được thực hiện ngay. Trước nguyện vọng chính đáng của cử tri cùng với yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ban Dân nguyện trong việc giúp UBTVQH về công tác dân nguyện. Ban Dân nguyện đã đề xuất và được UBTVQH chấp thuận giao cho Ban Dân nguyện tổ chức và tiến hành hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri.
Từ kết quả hoạt động của Ban Dân nguyện mà tại kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa 12,UBTVQH đã báo cáo trước Quốc hội kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri của các cơ quan có thẩm quyền. Đến kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa 12, UBTVQH đã báo cáo trước Quốc hội về kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri, nêu rõ những kiến nghị đã được giải quyết, những kiến nghị chậm được xem xét, nguyên nhân và đề xuất biện pháp khắc phục. Đây là lần đầu tiên UBTVQH thực hiện nhiệm vụ này, và tại các kỳ họp thứ 7, 8 của Quốc hội khóa XII và kỳ họp thứ 2,3,4 của Quốc hội khóa 13 UBTVQH tiếp tục thực hiện hoạt động giám sát này.
Tại kỳ họp thứ tư của Quốc hội khóa 13, UBTVQH cũng đã báo cáo trước Quốc hội về kết quả giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Từ Quốc hội khóa 14 đến nay, công tác dân nguyện ngày càng trở nên là hoạt động thường xuyên, đặc biệt báo cáo giám sát giải quyết kiến nghị của cử tri do Ban dân nguyện chủ trì, phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổng hợp, phân tích, xây dựng để tham mưu cho UBTVQH trình Quốc hội tại các kỳ họp đã là “phần cứng” không thể thiếu trong mỗi kỳ họp thường xuyên hằng năm của Quốc hội. UBTVQH cũng đã tiếp tục giao Ban Dân nguyện xây dựng báo cáo công tác dân nguyện hằng tháng trình Ủy ban xem xét, kết luận, kiến nghị thực hiện và giám sát thực hiện các vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội, UBTVQH.
- Nhận xét, đánh giá
Những hoạt động ban hành, sửa đổi, bổ sung các Nghị quyết nêu trên của UBTVQH đã góp phần thúc đẩy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm và nâng cao trách nhiệm trong việc giải quyết kiến nghị của cử tri, khiếu nại, tố cáo của công dân; đồng thời góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, đáp ứng tốt hơn sự mong đợi của cử tri và Nhân dân.
Trong hai mươi năm hoạt động, Ban Dân nguyện từ chỗ là cơ quan chuyên môn, thực hiện những nhiệm vụ của một cơ quan hành chính đã chuyển dần sang những hoạt động mang tính giám sát, mang lại kết quả tốt được dư luận xã hội và cử tri đồng tình và hoan nghênh.
Điều đó thể hiện sự thay đổi liên tục và có tính bước ngoặt trong tư duy và nhận thức về công tác dân nguyện.
Từ chỗ không có Ban Dân nguyện, UBTVQH đã thành lập Ban Dân nguyện, với tư cách là cơ quan chuyên môn.
Từ chỗ được giao thực hiện một số việc về dân nguyện, dần dần UBTVQH đãbổ sung thêm các nhiệm vụ vốn là thuộc về công tác dân nguyện cho Ban Dân nguyện theo đúng vị trí, vai trò, năng lực, hiệu quả của các hoạt động.
Từ chỗ chọn riêng nội dung giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri là nội dung báo cáo trước các kỳ họp Quốc hội. Nay Ban Dân nguyện vừa trực tiếp báo cáo Quốc hội về công tác giám sát giải quyết kiến nghị của cử tri, vừa gửi báo cáo về công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và giám sát việc tiếp công dân, giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo tới Quốc hội phục vụ giám sát, vừa thực hiện xây dựng báo cáo công tác dân nguyện hằng tháng để phục vụ các phiên họp của UBTVQH. Bên cạnh đó, Ban Dân nguyện còn giúp UBTVQH giám sát một số các vụ việc tại các bộ ngành, địa phương. Để làm tốt công tác dân nguyện, Ban Dân nguyện đã có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc UBTVQH cũng như các cơ quan, tổ chức có liên quan. Kết quả của hoạt động dân nguyện cho thấy rõ ràng có những đổi mới mạnh mẽ, hiệu quả, làm thay đổi cả cách nhìn của xã hội đối với Quốc hội, đồng thời góp phần đổi mới các hoạt động cơ bản của Quốc hội. Sự thay đổi nhận thức về công tác dân nguyện chính là “chìa khóa” chính trị – pháp lý – xã hội làm thay đổi thể chế và đổi mới hoạt động của Quốc hội, UBTVQH và của các cơ quan trong công tác dân nguyện.
Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng công tác dân nguyện và hoạt động của Ban Dân nguyện còn gặp nhiều khó khăn, bất cập làm phát sinh tồn tại, hạn chế ảnh hưởng tới hiệu quả và chất lượng của công tác dân nguyện của Quốc hội nói chung và của Ban Dân nguyện nói riêng.Bước đầu đánh giá cho thấy, những hạn chế, tồn tại trong công tác dân nguyện của Quốc hội Việt Nam cũng như các cơ quan dân cử, đại biểu dân cử trong thời gian qua là do các nguyên nhân sau:
+ Nhận thức chính trị – pháp lý – xã hội chưa ngang tầm, từ đó làm hạn chế trong xây dựng chính sách, pháp luật về dân nguyện. Một điều có thể thấy rõ làvề cơ sở hiến định, các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 của Nước ta đều không quy định cụ thể về dân nguyện và công tác dân nguyện của Quốc hội. Công tác dân nguyện chưa được hiểu nhất quán và trên thực tế chỉ tập trung vào việc tiếp nhận và xử lý các đơn thư khiếu nại, tố cáo. Quyền bày tỏ ý kiến thông qua thỉnh nguyện thư và kiến nghị về xây dựng chính sách và pháp luật của công dân chưa được pháp luật chú trọng và xây dựng các điều kiện để bảo đảm thực hiện. Nhiều vấn đề khiếu kiện dai dẳng, khiếu kiện đông người chưa được nghiên cứu và giải quyết triệt để. Không hiếm trong số đó có những vấn đề Hiến pháp: như quyền sở hữu của công dân, quyền tự do lập hội, quyền tự do kinh doanh…chưa được giải thích chi tiết mặc dù các quyền giải thích Hiến pháp đã được Hiến pháp trao cho UBTVQH.
+ Công tác dân nguyện của Quốc hội chưa được Nhà nước nhìn nhận, đánh giá đúng với ý nghĩa và tầm quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân ở Việt Nam. Công tác dân nguyện cần phải được hiểu rộng hơn, ngoài các vấn đề, nội dung đang được tiến hành thì còn bao hàm các nội dung khác như: quyền lập hội và đề đạt nguyện vọng qua các hội hoặc nhóm xã hội, thể hiện ý chí của Nhân dân thông qua trưng cầu dân ý; sự phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước thông qua các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị-xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội-nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác;vấn đề vận động hành lang (lobby) của các nhóm xã hội và tổ chức xã hội; quyền biểu tình, đình công để bày tỏ nguyện vọng, yêu cầu về chính sách, pháp luật và các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng… và trong tương lai sẽ có thể tồn tại nhiều hình thức thỉnh nguyện khác. Công tác dân nguyện của Quốc hội sẽ phải tiếp nhận và xử lý tất cả những vấn đề nêu trên, vì theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp và ra quyết sách quan trọng của quốc gia. Với cách tiếp cận này, công tác dân nguyện cần phải được vận hành đồng bộ, thống nhất, chuyên môn hóa cao và cơ cấu được giao thực hiện cần phải có một vị trí tương xứng trong bộ máy cơ quan dân cử của Nhà nước.
+ Về tổ chức, việc thực hiện công tác dân nguyện chưa được giao cho một cơ cấu chuyên môn thực hiện đúng tầm, hiện nay công tác này được giao cho nhiều cơ quan của Quốc hội thực hiện, trong đó chủ yếu tập trung tại Ban Dân nguyện là cơ quan chuyên môn của UBTVQH, dẫn đến tình trạng không xác định được trách nhiệm của chủ thể mang quyền/ nghĩa vụ dân nguyện, trong khi các cơ quan chỉ tập trung vào hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ chính mà lơ là công tác dân nguyện. Do đó, công tác dân nguyện của Quốc hội trong thời gian qua chưa thực sự chú trọng vào công tác xây dựng và hoạch định chính sách; các kết quả của công tác dân nguyện từ trước đến nay chỉ chú trọng vào giải quyết các vụ việc; chưa có các thống kê và đánh giá chi tiết về từng loại việc dân nguyện, về từng địa phương để có những đối sách phù hợp. Đây là công việc đòi hỏi nhiều công sức, chuyên gia và với số lượng cán bộ trực tiếp xử lý công tác dân nguyện hiện nay là không thể đáp ứng được các yêu cầu trên. Đặc biệt, Quốc hội không có cơ quan đầu mối về công tác dân nguyện. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả của công tác dân nguyện của Quốc hội.
Hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đối với công tác dân nguyện còn yếu và còn nhiều bất cập. Phần lớn hoạt động giám sát mới chỉ tập trung vào việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và cũng chưa thành các chuyên đề mà chủ yếu chỉ được các cơ quan của Quốc hội lồng ghép vào chương trình giám sát chung theo nội dung chuyên môn của từng cơ quan của Quốc hội. Trong khi đó, cơ quan chuyên môn là Ban Dân nguyện lại không có chức năng giám sát. Nói cách khác, có tình trạng bỏ trống mặt trận này.
+ Với sự thiếu vắng các chế tài (cả chính trị lẫn pháp lý), chế độ trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc thực hiện công tác dân nguyện đã làm cho công tác dân nguyện của Quốc hội thiếu tính hiệu quả, thiếu áp lực chính trị – pháp lý trong bối cảnh hiện nay.
+ Công tác giáo dục và tuyên truyền phổ biến pháp luật về dân nguyện của Quốc hội chưa được thực hiện đồng bộ đối với Nhân dân và các cán bộ, công chức trực tiếp xử lý các công việc dân nguyện. Bởi vậy, công tác tiếp dân của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xử lý công việc dân nguyện còn bất cập và Nhân dân do không có thông tin hoặc không tín nhiệm với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên luôn có tâm lý khiếu nại và tố cáo vượt cấp, trông chờ vào kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội.
Tóm lại, nhận thức chưa đạt đỉnh về công tác dân nguyện, cả về lý luận pháp lý lẫn thực tiễn đã góp phần “kìm hãm” công tác dân nguyện, công tác quan trọng thể hiện bản chất vai trò của Quốc hội nếu xét trên bình diện và lăng kính của cơ quan dân cử, cơ quan quyền lực của Nhân dân. Nhiều năm qua, công tác dân nguyện của Quốc hội danh chính ngôn thuận thực sự chỉ được quan tâm khoảng một phần tư thời gian kể từ khi thành lập Quốc hội. Điều đó cho thấy sự trì trệ trong nhận thức gây kìm hãm sự phát triển thực tiễn.
3. Giải pháp nâng cao nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội đối với công tác dân nguyện
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác dân nguyện của Quốc hội, có nhiều việc cần phải làm, đó là:
Thứ nhất, phải nâng cao nhận thức chính trị – pháp lý – xã hội về dân nguyện, công tác dân nguyện, vị trí, vai trò của cơ quan dân nguyện trong các cơ quan dân cử nói chung và trong Quốc hội nói riêng. Việc nâng cao nhận thức phải bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, nếp nghĩ, và gạt bỏ những định kiến (nếu có) về dân nguyện, công tác dân nguyện. Phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc và lợi ích của cử tri và Nhân dân vào đúng vị trí vốn có. Vấn đề này cần phải thực hiện trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc về lý luận và tổng kết thực tiễn về dân nguyện đồng thời vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm các nước trên thế giới vào điều kiện nước ta.
Cần nghiên cứu lý luận nhằm xác định rõ nội hàm khái niệm công tác dân nguyện nói chung và công tác dân nguyện của Quốc hội, từ đó hoàn thiện thể chế về công tác dân nguyện của Quốc hội, cơ quan dân cử, đại biểu dân cử để công tác dân nguyện ngày càng đi vào thực chất hơn, bám sát sự vận động, phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác dân nguyện của các cơ quan dân cử, đại biểu dân cử nói chung và cơ quan đầu mối về nguyện nói riêng.
- Thứ hai, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động công tác dân nguyện của Quốc hội thời gian vừa qua (đặc biệt là kết quả công tác dân nguyện nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII và khóa XIV); làm rõ những kết quả đạt được, những khó khăn, hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm trong tổ chức và hoạt động của Ban Dân nguyện thuộc UBTVQH và công tác dân nguyện của Quốc hội Việt Nam.Trong đó, tập trung đổi mới về nhận thức, đánh giá đúng vị trí, vai trò của công tác dân nguyện của Quốc hội với những nội dung cơ bản sau đây:
(i) Đổi mới tư duy xây dựng thể chế chính trị và thể chế pháp lý:
Nghiên cứu để báo cáo Đảng đoàn Quốc hội đề xuất Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương cho chủ trương nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật về Công tác Dân nguyện (hoặc Luật Dân nguyện). Trong đó: Quy định cụ thể về quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử trong công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý ý kiến, kiến nghị cử tri. Luật hóa nội hàm “cử tri”, “kiến nghị cử tri” để làm rõ hơn, cụ thể hơn thẩm quyền, chức trách, nhiệm vụ của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử trong mối quan hệ công tác với các cơ quan nhà nước khi thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp; Quy định về cơ chế dân nguyện khi cơ quan dân cử, đại biểu dân cử xem xét, kiến nghị đối với cơ quan có thẩm quyền về những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn mà pháp luật chưa quy định, những vụ việc phức tạp, kéo dài, bức xúc trong dư luận xã hội…; giám sát việc thi hành các luật: Tiếp công dân, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân…Quy định về trách nhiệm giải quyết, giải trình của các cơ quan nhà nước, chủ thể khác có thẩm quyền về thực hiện hoạt động giám sát công tác tiếp công dân, giám sát việc xử lý đơn thư khiếu nai, tố cáo, kiến nghị, phản ánh và giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội. Quy định trách nhiệm khi người có thẩm quyền, cơ quan có thẩm quyền không thực hiện kiến nghị của cơ quan và đại biểu dân cử; Quy định về vai trò, trách nhiệm, sự tham gia của người dân, của tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng điều chỉnh của dự án Luật trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; việc tổ chức lấy ý kiến của người dân khi thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng và trách nhiệm giải trình của cơ quan chủ trì, cơ quan có liên quan đối với những nội dung, những vấn đề mà cử tri đã kiến nghị, phản ánh trong và ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật Trưng cầu ý dân và thành lập, hoạt động của Ủy ban Dân nguyện của Quốc hội.
Tiếp tục nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật về công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cơ quan dân cử, đại biểu dân cử và hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; xây dựng và trình UBTVQH ban hành Quy định về tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử trên cơ sở sửa đổi, bổ sung, hợp nhất các văn bản của UBTVQH được quy định tại: Nghị quyết số 228/1999/NQ-UBTVQH10 ngày 15/11/1999 về tiếp công dân, xử lý đơn thư của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội; Nghị quyết số 694/2008/NQ-UBTVQH12 ngày 15/10/2008 về phân loại xử lý đơn thư của các cơ quan của Quốc hội và Nghị quyết số 759/2014/NQ-UBTVQH13 ngày 05/5/2014 quy định chi tiết về hoạt động tiếp công dân của Quốc hội, ĐBQH, Hội đồng nhân dân và đại biểu HĐND các cấp.
(ii) Đổi mới nhận thức về phương thức hoạt động:
Đổi mới công tác phối hợp hoạt động, báo cáo định kỳ 06 tháng, 01 năm theo quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Nội quy, Quy chế Kỳ họp Quốc hội với các hoạt động thường xuyên của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử. Qua cơ chế giao ban, phối hợp về công tác dân nguyện của các cơ quan dân cử, cơ quan Đảng, nhất là Ban Dân vận Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và có sự tham gia tích cực, thường xuyên của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách. Trong đó, cơ quan chuyên trách về công tác dân nguyện của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân sẽ đóng vai trò là cơ quan tham mưu, tổng hợp giúp Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ý kiến với cơ quan có thẩm quyền trong việc xem xét hoàn thiện chính sách pháp luật; trong việc giải quyết những vụ việc cụ thể, những vấn đề bức xúc trong dư luận xã hội liên quan đến địa phương.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp tục đề xuất, thể chế hóa các quy định của Đảng, Hiến pháp và phát luật của Nhà nước có liên quan đến công tác dân nguyện của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội.
Nghiên cứu, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động cơ quan dân nguyện của Quốc hội theo hướng tập trung vào một đầu mối, chuyên môn hóa cao cùng với đổi mới về thể chế về công tác dân nguyện của các cơ quan dân cử, đại biểu dân cử để công tác dân nguyện ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả hơn góp phần thực hiện nâng cao vị thế của Quốc hội trong bối cảnh tăng cường xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong tình hình mới.
Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội, xây dựng và ban hành Luật về Công tác dân nguyện (hoặc Luật Dân nguyện) trên cơ sở tích hợp các nội dung của Nghị quyết số 1156/2016/NQ-UBTVQH13 ngày 17/3/2016 của UBTVQH về chức năng, nhiệm vụ của Ban Dân nguyện và các quy định có liên quan.
Xây dựng cơ chế pháp luật phục vụ việc tổ chức và tiến hành hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri, các kiến nghị, phản ánh của công dân.... Qua đó khẳng định sự cần thiết phải có một cơ quan của Quốc hội làm cầu nối giữa Quốc hội với cử tri và nhân dân cả nước thực hiện nhiệm vụ đại diện cho ý chí và nguyện vọng của cử tri một cách thiết thực và cụ thể.
Đề cao vai trò và tạo điều kiện để đại biểu dân cử thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ, trong đó có công tác dân nguyện với các nội dung, nội hàm cụ thể. Lấy đó làm tiêu chí đánh giá vai trò, đóng góp của đại biểu dân cử trong nhiệm kỳ và hằng năm.Tăng cường công tác tập huấn, hướng dẫn, sự trao đổi giữa các đại biểu dân cử, các cơ quan làm công tác dân nguyện của Quốc hội với Hội đồng nhân dân để nâng cao nhận thức và hiệu quả hoạt động dân nguyện./.

 


[1] Những hình thức người dân tự đặt ra đã thể hiện qua rất nhiều đơn thư đã gửi các cơ quan kể cả ở trung ương và địa phương.

(Nguồn tin: Số Chuyên đề "20 năm thành lập Ban dân nguyện - Xây dựng, phát triển và đổi mới" - TC NCLP. 2023)