Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014

01/03/2016

ThS. HUỲNH THỊ TRÚC LINH

Trưởng Bộ môn Luật, Trường Đại học Trà Vinh

1. Định nghĩa cổ đông thiểu số của công ty cổ phần tại Việt Nam hiện nay
Pháp luật thực định của Việt Nam chưa có một định nghĩa về cổ đông thiểu số (CĐTS) hay các đặc điểm của CĐTS. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật cụ thể đã tồn tại nhiều thuật ngữ dùng để chỉ CĐTS, như cổ đông ít vốn, cổ đông nhỏ. Về mặt lý luận, có quan điểm chia cổ đông thành cổ đông ít vốn và cổ đông đa số, có quan điểm thì cho rằng “người nắm giữ phần vốn đáng kể trong công ty được gọi là cổ đông đa số. Ngược lại, các cổ đông nhỏ không có ảnh hưởng đáng kể trong quản lý và điều hành công ty được xem là CĐTS”[1]. Một số văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành không định nghĩa CĐTS mà đưa ra quy định về cổ đông lớn. Chẳng hạn khoản 9 Điều 6 Luật Chứng khoán quy định: “Cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành”. Như vậy, ta có thể suy luận 5% là ranh giới để xác định cổ đông lớn/cổ đông nhỏ theo Luật Chứng khoán. Tương tự, tại khoản 4 Điều 86 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: “Cổ đông sở hữu 5% tổng số cổ phần trở lên phải được đăng ký với cơ quan kinh doanh có thẩm quyền…”. Theo quy định này, có thể suy luận những cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cổ phần chính là các cổ đông lớn.
Dù tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, về mặt lý luận, có thể hiểu CĐTS là cổ đông không chi phối được công ty, không có khả năng áp đặt quan điểm, ý chí, đường lối, sách lược của mình trong công ty… khi các cổ đông thực hiện các quyền của mình. Trong bài viết này, thuật ngữ “CĐTS” được hiểu là các cổ đông nhỏ, không phải là ít về số lượng cổ đông mà nhỏ về giá trị vốn góp so với các cổ đông khác. Chúng ta có thể xác định CĐTS dựa trên hai yếu tố quan trọng hàng đầu sau đây[2]: Thứ nhất: nói đến CĐTS phải nói đến vốn góp của họ là tổng số cổ phần mà họ sở hữu (là phần trăm cổ phần có quyền biểu quyết) hay phần vốn góp của họ (tỷ lệ phần trăm) trong vốn điều lệ của công ty; Thứ hai: nói đến CĐTS là nói đến khả năng của họ trong việc tác động tới chính sách kế hoạch kinh doanh, chiến lược phát triển, lựa chọn người quản lý công ty hay nói cách khác là nói tới vai trò của họ khi biểu quyết thông qua các vấn đề tại cơ quan quyền lực cao nhất trong công ty.
2. Cơ chế bảo vệ cổ đông thiểu số theo quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng
Quyền của cổ đông là điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất để bảo vệ cổ đông, là phương tiện để cổ đông có thể sử dụng để bảo vệ mình. Những yếu tố khác như cơ chế kiểm soát bên trong thông qua cấu trúc quản trị nội bộ hay cơ chế kiểm soát bên ngoài và thiết chế đảm bảo thực thi pháp luật là những yếu tố bổ trợ, là điều kiện cho các quyền của cổ đông được thực thi nhằm bảo vệ cổ đông[3]. Nếu căn cứ vào các quyền và khả năng đảm bảo các quyền của cổ đông, có thể chia làm hai nhóm quyền lớn. Một là các quyền mang tính phòng ngừa (prevention rights), chẳng hạn như các quyền về tài sản, về dự họp, biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ), quyền được thông tin; hai là các quyền mang tính khắc phục (remedy rights), chẳng hạn như các quyền yêu cầu hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ, quyền khởi kiện người quản lý công ty khi họ vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại cho công ty hoặc cổ đông[4]. Luật Doanh nghiệp năm 2014 không chia quyền của cổ đông thành các nhóm quyền mà liệt kê các quyền theo thứ tự tại các Điều 114, 116, 117, 118, 122, 123, 124, 129. Trong giới học thuật còn chia quyền của cổ đông, trong đó có CĐTS thành 4 nhóm: i. Nhóm quyền về tài sản; ii. Nhóm quyền về quản trị hay quản lý công ty (bao gồm các quyền dự họp, biểu quyết, đề cử ứng cử); iii. Nhóm quyền về thông tin; iv. Nhóm quyền về phục hồi quyền lợi hay nhóm quyền mang tính khắc phục.
CĐTS cũng là cổ đông phổ thông, do đó, họ cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ giống với cổ đông phổ thông. Ngoài các quyền của cổ đông phổ thông, CĐTS còn có những quyền rất đặc thù để họ có thể tự bảo vệ mình trước các cổ đông lớn đầy quyền lực, như quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Về cơ bản, kế thừa quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã có những cố gắng trong việc xây dựng một cơ chế để bảo vệ các CĐTS, vốn luôn là những nhóm lợi ích nhỏ trong công ty cổ phần (CTCP), ít có khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình trước các cổ đông lớn. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định này đã làm phát sinh nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu và tổng kết để hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho CĐTS bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cũng như xây dựng một cơ chế hiệu quả để CTCP hoạt động.
Thứ nhất, việc thực thi các quyền trong nhóm quyền tài sản.Việc thực hiện quyền tài sản của CĐTS cũng như các cổ đông khác. Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định cho CĐTS và các cổ đông lớn có quyền nhận cổ tức, quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình và quyền nhận một phần tài sản khi công ty giải thể hoặc phá sản là như nhau. Mặc dù việc thực hiện các quyền này giữa các CĐTS và cổ đông khác cùng chung lợi ích, nhưng trên thực tế khi thực hiện, quyền CĐTS rất dễ bị xâm hại. Chẳng hạn quyền ưu tiên mua cổ phần mới chào bán. Khi phát hành thêm cổ phần mới, các công ty thường dành một tỷ lệ cổ phần nhất định để bán cho các cổ đông hiện có của công ty với giá ưu đãi. Sẽ không có gì để nói nếu số cổ phần dành riêng bán cho cổ đông hiện hữu với cùng một mức giá, cùng điều kiện như nhau. Nhưng các cổ đông lớn thường có những cách thức khác nhau nhằm quy định có lợi hơn cho mình, ví dụ như quy định cổ đông lớn sẽ mua với tỷ lệ khác và cổ đông nhỏ mua với tỷ lệ khác, hoặc quy định cả cổ đông lớn và cổ đông nhỏ cùng mua với tỷ lệ như nhau song cổ đông lớn lại được mua với giá thấp hơn so với cổ đông nhỏ. Ví dụ: CTCP Vận tải xăng dầu (VIPCO) cho phép cổ đông lớn mua với giá 15.000 đồng/cổ phiếu, còn các cổ đông nhỏ lại phải mua với giá 40.000 đồng/cổ phiếu (cao gấp 2,67 lần so với cổ đông lớn), hoặc trường hợp CTCP bê tông X.M khi phát hành cổ phiếu mới, các cổ đông hiện hữu đều được mua với giá bằng nhau 20.000 đồng/cổ phần nhưng tỷ lệ mua lại khác nhau: cổ đông sáng lập mua với tỷ lệ 1:1, cổ đông khác mua với tỷ lệ 2:1 (bằng ½ cổ đông sáng lập)[5]
Các cổ đông lớn có thể làm được như vậy vì số biểu quyết lớn hơn, do đó khi họ liên thủ, thỏa hiệp lại với nhau thì hầu hết các quyết định dễ dàng được thông qua. Một thực tế nữa là cổ đông lớn thường nằm trong Hội đồng quản trị (HĐQT) hoặc có đại diện của mình trong các cơ quan như HĐQT, Ban Kiểm soát (BKS), vì vậy họ dễ dàng thỏa hiệp với nhau. Cổ đông nhỏ cho dù muốn phản đối vẫn không thay đổi được, mặt khác, do tâm lý phó mặc của cổ đông nhỏ và trong CTCP thiếu đoàn kết nên dẫn đến tình trạng này. Chỉ có một trường hợp lạ xảy ra tại Công ty liên doanh Quản lý quỹ Việt Nam (VFM): Cũng là các cổ đông nhỏ nhưng các cổ đông VFM lại làm được điều không phải ai cũng làm được, khi VFM giảm giá phát hành mà không thay đổi ngày chốt quyền khiến nhiều cổ đông nhỏ bị thiệt thòi, những cổ đông này lập tức lên tiếng khiến dư luận chú ý. Cuối cùng ban lãnh đạo VFM phải huỷ quyết định giảm giá. Đây là một sự kiện cho thấy, cổ đông nhỏ khi biết liên kết sẽ đảm bảo được phần nào sự công bằng và lợi ích mà mình đáng được hưởng. Điều đó cho thấy, nếu những cổ đông nhỏ hiểu biết luật pháp, đoàn kết thì bảo vệ mình tốt hơn, đồng thời phía cơ quan quản lý nhà nước cũng sẽ có những động thái mạnh dạn, quyền lợi của nhà đầu tư nhỏ sẽ được đảm bảo tốt hơn. 
Thứ hai, việc thực thi các quyền trong nhóm quyền về quản trị công ty. Cụ thể là quyền đề cử người vào HĐQT và BKS. Quyền này được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Tuy nhiên, do hiện tại chưa có Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2014 nên những vấn đề về số lượng ứng cử viên cụ thể mà mỗi nhóm cổ đông được đề cử chưa được quy định cụ thể. Trước đây những vấn đề này đã được chi tiết hóa tại Điều 29 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP của Chính phủ, nhưng quy định này đã không còn hiệu lực pháp luật từ thời điểm Luật Doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực thi hành. Đối với quyền đề cử người vào HĐQT và BKS, quy định này có ý nghĩa quan trọng trong bảo vệ quyền của cổ đông nói chung và quyền của CĐTS nói riêng vì nó quy định một khả năng gom nhóm của cổ đông để nâng cao quyền lực cho cổ đông, thực hiện quyền một cách tập thể. Bằng cách gom nhóm, các CĐTS có quyền đề cử, ứng cử người vào HĐQT, BKS, góp tiếng nói về quản lý công ty và từ đó hạn chế sự lạm dụng quyền lực của những người quản lý công ty. Đây là cơ chế đảm bảo các cổ đông phổ thông luôn có đại diện của mình trong HĐQT và BKS. Có đại diện là thành viên HĐQT, họ có thể nắm bắt được thông tin và tham gia quyết định, góp ý một số vấn đề quan trọng, đặc biệt là việc liên quan đến quyết định chào bán cổ phần, cổ phiếu và giá cổ phần chào bán ra bên ngoài. Hầu hết các cuộc họp ĐHĐCĐ chủ yếu chỉ là thông qua những nội dung mà HĐQT đã chuẩn bị sẵn. Một thống kê sơ bộ của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương cho thấy, chỉ khoảng 8% CTCP có bổ sung nội dung mới vào Nghị quyết của ĐHĐCĐ.
Những quy định này cũng gián tiếp tạo điều kiện cho các CĐTS (quy định này dành cho tất cả các cổ đông chứ không riêng gì nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông) có thể bầu được người của mình vào HĐQT và BKS bằng cách liên kết lại, dồn hết tổng số phiếu bầu của mình cho ứng cử viên đó. Bằng cách này, họ sẽ có khả năng đưa được đại diện của mình vào HĐQT và BKS để thể hiện tiếng nói và bảo vệ lợi ích của mình. Cơ chế bầu dồn phiếu là cơ chế được thiết lập từ kinh nghiệm của Hoa Kỳ[6], làm tăng khả năng CĐTS có được người đại diện của mình trong HĐQT và BKS, nhưng nếu cổ đông không được tham dự cuộc họp ĐHĐCĐ thì quy định này coi như “bị treo”.
Trong quy định này có phần hơi phi lý khi ràng buộc điều kiện các cổ đông hay nhóm cổ đông phải nắm giữ cổ phần tối thiểu trong sáu tháng. Đã là chủ sở hữu thì đương nhiên có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt, nhưng trong quy định này, luật lại tước đi quyền định đoạt của CĐTS; nhưng sau khi cướp đi quyền này thì lại trang bị cho họ cơ chế thực hiện cái quyền mình không còn.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định việc bầu các thành viên HĐQT và BKS phải theo phương thức bầu dồn phiếu nhưng chưa hướng dẫn chi tiết nên trong thực tiễn áp dụng còn lúng túng, dẫn đến tranh chấp quyền lực tại khá nhiều CTCP. Những khó khăn, vướng mắc này trước đây đã được tháo gỡ tại Điều 29 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP. Thế nhưng, còn tồn tại một vướng mắc về điều kiện trúng cử của thành viên HĐQT và BKS giữa quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và quy định của Nghị định số 102/2010/NĐ-CP. Theo khoản 4 Điều 29 Nghị định thì: “Người trúng cử thành viên HĐQT hoặc thành viên BKS được xác định theo số phiếu bầu tính từ cao xuống thấp, bắt đầu từ ứng cử viên có số phiếu bầu cao nhất cho đến khi đủ số thành viên quy định tại Điều lệ công ty”. Theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 3 Điều 104 Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua tại cuộc họp khi có đủ các điều kiện: Được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận, việc biểu quyết bầu thành viên HĐQT và BKS phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu”. Như vậy, xuất phát từ những quy định này, điều kiện trúng cử của thành viên HĐQT và BKS có thể được hiểu theo hai cách sau: Thứ nhất, người trúng cử thành viên HĐQT hoặc thành viên BKS phải có số cổ phiếu bầu cao tương ứng, nhưng ít nhất phải bằng 65% tổng số cổ phần của cổ đông tham dự họp. Thứ hai, người trúng cử vào HĐQT và BKS được xác định theo số phiếu bầu từ cao xuống thấp mà không theo tỷ lệ khống chế là phải đạt được số phiếu bầu trên 51% hay 65% tổng số cổ phần của cổ đông tham dự họp.
Tham khảo quy định bầu dồn phiếu ở một số quốc gia trên thế giới như: Hàn Quốc, Indonesia, Malaisia, Thái Lan,… mặc dù họ có quy định về phương thức bầu dồn phiếu nhưng rất ít các công ty áp dụng hình thức này. Tại các nước này, thành viên HĐQT thường được bầu theo hình thức biểu quyết đa số cổ đông có mặt tại ĐHĐCĐ. Riêng Hàn Quốc có đưa ra một quy định về ứng viên cho vị trí thành viên HĐQT là phải nhận được ít nhất 25% tổng số phiếu bầu của toàn bộ các cổ đông[7]. Còn ở Việt Nam, con số tương tự này phải là 65% nếu như hiểu theo cách thứ nhất.
Ở Mỹ thì phương thức bầu dồn phiếu chỉ được áp dụng dễ dàng trong các công ty không phát hành chứng khoán, còn ở các công ty phát hành chứng khoán thì không khả thi vì số cổ đông quá lớn. Trong việc bầu chọn Ban giám đốc, “trừ khi có những quy định khác trong điều khoản thành lập công ty, các giám đốc được bầu bằng đa số phiếu, có nghĩa là các ứng cử viên có số phiếu bầu lớn nhất sẽ được chọn, cho dù họ có đạt được sự tán đồng từ đa số cổ phiếu có quyền tham gia bỏ phiếu hay không”[8], quy định này tương tự với quy trình bầu chọn thành viên HĐQT và BKS tại Việt Nam nếu hiểu theo cách thứ hai.
Trên thực tế, tại Việt Nam, các cơ quan nhà nước đã giải thích theo cách thứ nhất. Chẳng hạn theo thành viên của tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2005, ông Nguyễn Đình Cung, thì “tỷ lệ 65% vẫn áp dụng cho bầu dồn phiếu”, quy định này đã không bảo vệ được CĐTS theo thông lệ quốc tế[9].
Thứ ba, việc thực thi các quyền trong nhóm quyền về thông tin. Quyền yêu cầu BKS kiểm tra các vấn đề liên quan đến quản lý và điều hành hoạt động của công ty; được xem xét, trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của HĐQT, báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm, và các báo cáo của BKS, quyền này gọi chung là quyền được thông tin, nhằm cung cấp cho các CĐTS có thể kiểm soát và theo dõi được tình hoạt động của công ty, quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Do hình thức CTCP là sự kết hợp giữa những người có vốn và những người có khả năng kinh doanh, chủ sở hữu chưa chắc đã là người đứng ra kinh doanh, quản lý công ty nên trường hợp người quản lý công ty lợi dụng khả năng, chức vụ của mình để làm lợi riêng, gây nguy hại đến công ty là có thể xảy ra. Vì vậy, những quy định này giúp các CĐTS có thể thể hiện quyền sở hữu của mình đối với công ty thông qua khả năng nắm bắt tình hình hoạt động cụ thể của công ty, có những biện pháp kiểm tra, ngăn ngừa hành vi vi phạm, lạm quyền của bộ máy quản lý công ty.
Để bảo vệ được lợi ích của các CĐTS, trước hết phải dựa vào số lượng thông tin mà họ tiếp cận được, chất lượng của các thông tin và thời điểm, tính kịp thời của thông tin mà họ có thể nhận được và từ đó phân tích để bảo vệ lợi ích của các cổ đông. Đồng thời, lợi ích còn phụ thuộc vào năng lực của các nhà đầu tư. Liệu nhà đầu tư có khả năng phân tích đánh giá những thông tin có được để từ đó đầu tư một cách thích hợp hay không.
Xét về mặt công bố thông tin, so với những thông lệ quốc tế thì chúng ta mới chủ yếu chú ý đến thông tin quá khứ, những thông tin công bố định kỳ về báo cáo tài chính hàng quý, những thông tin đột xuất mà công ty phải công bố, những giao dịch nội bộ mà công ty phải công bố theo quy định của Thông tư số 38/2007-TT-BTC ngày 18/4/2007 của Bộ Tài chính về hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Riêng những thông tin đánh giá về tương lai của công ty như nhóm thông tin về HĐQT và nhóm thông tin đánh giá của HĐQT về tương lai quản trị của công ty, thì hiện nay còn thiếu và pháp luật chưa yêu cầu. Theo thông lệ quốc tế, có hai nhóm thông tin về tương lai rất quan trọng đối với nhà đầu tư. Thứ nhất, nhóm thông tin về đánh giá của HĐQT như: về thay đổi thị trường sản phẩm, thị trường đầu ra của công ty, những tác động của thị trường vốn và những yếu tố khác. Thứ hai, nhóm thông tin về HĐQT như: thành viên HĐQT có sở hữu bao nhiêu phần trăm trong công ty và những công ty khác, năng lực kinh nghiệm của HĐQT, ai giới thiệu vào HĐQT? Những thông tin này không những giúp nhà đầu tư đánh giá được năng lực của đội ngũ HĐQT, mà còn đánh giá được tính khách quan, công bằng, vô tư không thiên vị trong hoạt động kinh doanh. Đối với các nhà đầu tư thiểu số, hai nhóm thông tin về tương lai rất quan trọng, bởi có như vậy thì mọi giao dịch của công ty, kể cả giao dịch chuyển nhượng cổ phần của thành viên HĐQT mới minh bạch và công bằng.
 Các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền này còn không ít bất cập. Một là lượng thông tin bắt buộc phải cung cấp khi có yêu cầu là rất hạn chế; hai là, giới hạn chủ thể được yêu cầu cung cấp, chỉ có cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng mới có quyền này, nếu không thỏa mãn hai điều kiện trên thì không có quyền yêu cầu.
Thứ tư, việc thực thi các quyền trong nhóm quyền phục hồi quyền lợi. Cụ thể là  quyền yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài huỷ quyết định của ĐHĐCĐ. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã trao cho cổ đông quyền yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài xem xét, huỷ bỏ quyết định của ĐHĐCĐ trong các trường hợp trình tự, thủ tục triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ; trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định của ĐHĐCĐ vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty[10]. Với quyền năng này, cổ đông mà đặc biệt là CĐTS có thể chủ động lên tiếng, yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài can thiệp để bảo vệ quyền lợi của mình. Điều này cũng hạn chế được sự thụ động trong việc cổ đông chỉ biết trông chờ vào sự giám sát của cơ quan nhà nước, bởi vì quyết định của ĐHĐCĐ là những vấn đề mang tính nội bộ của doanh nghiệp, hơn ai hết cổ đông sẽ là người tiếp cận và bị tác động nhanh nhất, do đó trao quyền năng này cho cổ đông để tự họ chủ động bảo vệ mình là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, với vị trí và tính cách thụ động của mình, CĐTS rất ít khi sử dụng quyền năng này. Hơn nữa, việc đưa yêu cầu tới Trọng tài và Toà án lại gặp phải khó khăn từ nhiều phía, bởi để được đưa yêu cầu giải quyết đến Trọng tài, đòi hỏi điều lệ công ty phải quy định nội dung này hoặc phải đạt được thoả thuận với HĐQT về việc này. Một vấn đề khác là việc yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thương mại - khi tranh chấp đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài thương mại theo khoản 1 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 - là “Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại”, mà hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh. Việc cổ đông yêu cầu Trọng tài hủy quyết định của ĐHĐCĐ có thuộc thẩm quyền của trọng tài hay không là vấn đề còn rất nhiều ý kiến khác nhau.
Trong khi đó, nếu đưa yêu cầu tới Toà án, CĐTS cũng sẽ rất khó khăn để được Toà án thụ lý do các vướng mắc từ cơ quan tài phán trong việc xác định loại vụ việc dân sự để phân công thụ lý và giải quyết. Có trường hợp Tòa án giải quyết ngay mà không gặp trở ngại gì như Bản án số 244/2007/KDTM-PT ngày 6/12/2007 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội; cũng có trường hợp Tòa án thụ lý nhưng khó xác định đây là việc dân sự hay vụ án dân sự, ví như tranh chấp tại CTCP Sản xuất thương mại dịch vụ Đay Sài Gòn, cả Tòa kinh tế Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh và Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao cho rằng đây là việc dân sự, nhưng trong tranh chấp tương tự tại CTCP 565 thì hai Tòa này lại cho rằng đây là vụ án dân sự.
3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần
Phân tích những quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, so sánh với những quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, cũng như các quy định của các văn bản pháp luật khác có liên quan, chúng ta thấy, về cơ bản pháp luật Việt Nam hiện hành đã thiết lập một cơ chế nhằm bảo vệ các CĐTS trong CTCP. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định này đã phát sinh nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. Chúng tôi xin nêu một vài kiến nghị nhằm góp phần giải quyết vấn đề này:
Thứ nhất, văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2014 cần phải định nghĩa rõ ràng CĐTS là ai, đặc điểm của CĐTS là gì để có thể nhận dạng được họ, đồng thời để họ biết quyền và nghĩa vụ của mình ra sao. Vấn đề này rất quan trọng, nhưng trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 không có quy định nào nói về CĐTS là ai, chúng ta chỉ định nghĩa CĐTS dựa trên các quy định diễn tả về cổ đông lớn. Theo chúng tôi, việc xác định có là CĐTS hay không không nên dựa vào tỷ lệ sở hữu với những con số tuyệt đối, mà nên căn cứ vào khả năng chi phối được công ty, khả năng áp đặt quan điểm, ý chí, đường lối, sách lược của mình trong công ty. Tùy vào cơ cấu sở hữu mỗi công ty để xác định đâu là CĐTS sẽ chính xác hơn, tránh tình trạng cùng một tỷ lệ sở hữu cổ phần như nhau nhưng có công ty thì họ là CĐTS, có công ty thì họ lại không phải là CĐTS nếu căn cứ theo tỷ lệ 10%. Tham khảo quy định của Trung Quốc, tỷ lệ này là 3%, là mức có thể chấp nhận được. Chúng tôi kiến nghị nên quy định tỷ lệ này nhỏ xuống và kết hợp với các tiêu chí khác như cơ cấu tỷ lệ sở hữu, khả năng chi phối… hoặc là không căn cứ vào tỷ lệ cổ phần cụ thể để quy định là CĐTS, mà trao quyền cho chính công ty đó quyết định, thể hiện trong bản điều lệ công ty ghi tiêu chí CĐTS là gì, và phải được tất cả cổ đông đồng ý thông qua nghị quyết của ĐHĐCĐ. Sau mỗi lần phát hành thêm cổ phần, tăng giảm vốn điều lệ thì nghị quyết của ĐHĐCĐ phải có điều chỉnh cụ thể về tiêu chí xác định CĐTS. Việc trao cho công ty quyền này sẽ tạo sự chủ động cho công ty và đại diện cho tiếng nói của tất cả cổ đông, và quan trọng là phù hợp với chính công ty đó thì quy định sẽ phát huy tác dụng.
Thứ hai, khoản 2 Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định cho các cổ đông hoặc nhóm cổ đông đạt tỷ lệ 10% tổng số cổ phần phổ thông có các quyền triệu tập ĐHĐCĐ, đề cử người vào HĐQT và BKS, xem xét trích lục biên bản nghị quyết của ĐHĐCĐ, yêu cầu BKS từng vấn đề cụ thể. Như đã trình bày ở trên, tỷ lệ 10% là rất lớn, rất khó để cổ đông các công ty đại chúng hay các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa đạt được (trong khi đó, tỷ lệ này ở Trung Quốc chỉ là 3%). Khi đã thỏa mãn tỷ lệ này thì phải thỏa mãn một điều kiện khác, đó là phải sở hữu ít nhất sáu tháng liên tục - điều kiện đủ. Quy định này đã làm khó các cổ đông khi thực hiện quyền của họ. Theo quy định của pháp luật thì cổ đông nhận chuyển nhượng cổ phần trong thời gian giữa hai phiên họp ĐHĐCĐ thì được phép tham dự cuộc họp ĐHĐCĐ. Pháp luật đã thừa nhận quyền tham dự của họ, tại sao lại không cho họ được tham gia biểu quyết góp ý kiến? Tại sao cho phép tham gia phiên họp ĐHĐCĐ, nhưng lại không cho họ thực hiện các quyền của mình tại khoản 2 Điều 114; sự hiện diện của họ tại ĐHĐCĐ chỉ cho đủ hay sao? Quy định này thực chất chỉ làm khó các cổ đông nhỏ, bởi nếu là các cổ đông lớn nhận chuyển nhượng nhưng không đủ sáu tháng thì luật cũng không đề cập họ có quyền biểu quyết hay không. Ví dụ trường hợp một cổ đông nhận chuyển nhượng tới 40% cổ phần của công ty trước ĐHĐCĐ chỉ hai tháng thôi thì cổ đông này có các quyền của nhóm cổ đông sở hữu 10% không? Thực tế cho thấy, khi cổ đông sở hữu tới 40% cổ phần thì đã là cổ đông lớn đến rất lớn, và họ được thực hiện quyền của mình như thông thường mà không gặp phải hạn chế nào. Ở đây đã tạo sự phân biệt đối xử giữa cổ đông nhỏ và cổ đông lớn, nếu là cổ đông lớn do nhận chuyển nhượng cổ phần nhưng chưa đủ sáu tháng thì vẫn có đầy đủ quyền, còn cổ đông nhỏ lại không. Pháp luật quy định đã là cổ đông là như nhau, mỗi cổ phiếu đều cho cổ đông sở hữu nó những quyền và nghĩa vụ ngang nhau, vậy tại sao lại hạn chế quyền của cổ đông nhỏ? Theo chúng tôi, nên quy định chi tiết khoản 2 Điều 114 theo hướng không quy định cổ đông, nhóm cổ đông phải sở hữu trong sáu tháng liên tục, đồng thời quy định tỷ lệ nhỏ hơn 10% thì phù hợp hơn, còn 10% là quá lớn.
Thứ ba, quy định tại khoản 3 Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014 nhóm cổ đông tại khoản 2 Điều 114 triệu tập ĐHĐCĐ khi HĐQT vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, quyền của người quản lý hoặc ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao, nhưng luật lại không quy định thế nào là vi phạm nghiêm trọng. Điều này làm quy định này mang tính hình thức. Văn bản hướng dẫn thi hành cần quy định rõ thế nào là vi phạm nghiêm trọng, trong những trường hợp nào thì HĐQT đã vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông. Có như thế cổ đông mới nắm rõ quyền của mình, tránh tình trạng cổ đông triệu tập ĐHĐCĐ một cách tùy tiện hay cổ đông không dám thực hiện quyền của mình. Đó đồng thời cũng là mức giới hạn cho các nhà quản lý, thành viên HĐQT trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Đồng thời, khi HĐQT có các sai phạm nghiêm trọng này thì cá nhân các cổ đông có được quyền khởi kiện trách nhiệm dân sự thành viên HĐQT khi đã không thực hiện quyền triệu tập ĐHĐCĐ hay không? Vấn đề này cũng không được luật đề cập. Theo chúng tôi, song song với việc triệu tập ĐHĐCĐ thì cổ đông không mất quyền viện dẫn tới cơ quan nhà nước để bảo vệ khi lợi ích của mình bị thiệt hại thông qua các chế định về khởi kiện trách nhiệm dân sự, bởi đây là hai quan hệ độc lập: một quan hệ là làm tổn hại lợi ích chung, một quan hệ là gây thiệt hại lợi ích riêng của mỗi cổ đông. Chính vì vậy, cổ đông có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại cho bản thân và triệu tập ĐHĐCĐ để chấm dứt hành vi sai trái của HĐQT. 
Thứ tư, quyền yêu cầu BKS kiểm tra các vấn đề liên quan đến quản lý và điều hành hoạt động của công ty; được xem xét, trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của HĐQT, báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm, các báo cáo của BKS. Quyền thông tin này cần quy định cụ thể và chi tiết hơn, không chỉ là cung cấp các thông tin trong quá khứ mà cả thông tin tương lai như về thay đổi thị trường sản phẩm, thị trường đầu ra của công ty, những tác động của thị trường vốn và những yếu tố khác hoặc nhóm thông tin về HĐQT như: thành viên HĐQT có sở hữu bao nhiêu phần trăm trong công ty và những công ty khác, năng lực kinh nghiệm của HĐQT, ai giới thiệu vào HĐQT? Một vấn đề khác trong nhóm quyền này là quyền yêu cầu tra cứu, trích lục, sao chép thông tin, thì các cổ đông có nhu cầu tự làm hay yêu cầu bằng văn bản để công ty cung cấp, có phải tất cả các yêu cầu của cổ đông đều được chấp thuận? Chúng tôi cho rằng, cổ đông có quyền yêu cầu công ty cung cấp các thông tin cần thiết mà luật đã cho phép, bất kể khi đã được cung cấp trước đây rồi, và nếu HĐQT không cung cấp thì HĐQT vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin, làm tổn hại đến lợi ích của cổ đông và Tòa án có nghĩa vụ giải quyết khi có yêu cầu của cổ đông.
Thứ năm, vấn đề hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ. Luật Doanh nghiệp năm 2014 tiếp tục trao cho các cổ đông quyền yêu cầu Tòa án, Trọng tài hủy quyết định ĐHĐCĐ khi trình tự và thủ tục triệu tập họp, trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định vi phạm pháp luật hoặc điều lệ công ty. Chúng tôi cho rằng, yêu cầu Tòa án hủy là hợp lý, căn cứ theo Bộ luật Dân sự năm 2005; không nên quy định cho Trọng tài thẩm quyền này bởi các lý do sau: vấn đề tranh chấp này có thuộc thẩm quyền của Trọng tài hay không thì còn nhiều tranh cãi, dẫn đến hệ quả khi Trọng tài giải quyết thì quyết định đó rất dễ bị Tòa án hủy với lý do không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, như vậy sẽ rất phiền phức và tốn kém; tiếp nữa, để yêu cầu Trọng tài giải quyết thì không dễ, hoặc là điều lệ quy định hoặc là các bên phải thỏa thuận Trọng tài, nhưng thường điều lệ sẽ không quy định vấn đề này, còn khi tranh chấp thì khó có thể đi đến thỏa thuận Trọng tài được. Trước đây còn có việc tranh cãi về việc yêu cầu hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ là việc dân sự hay vụ án dân sự, nhưng sau khi Tòa kinh tế -TAND tối cao cho rằng đây là loại việc dân sự chứ không có tranh chấp, không phải là vụ án kinh doanh, thương mại[11] thì mới có cách hiểu thống nhất. Có thể lấy ví dụ trường hợp vụ kiện tụng giữa HĐQT cũ và HĐQT mới CTCP Đay Sài Gòn, Bản án sơ thẩm số 511/2006/KDTM-ST ngày 12/10/2006 cho rằng đây là vụ án dân sự và ra phán quyết chấp nhận kết quả Đại hội cổ đông bất thường, buộc HĐQT cũ phải giao "quyền lực" cho HĐQT mới[12]. Nhưng sau khi bản án sơ thẩm bị kháng cáo lên Tòa Phúc thẩm - TAND tối cao cho rằng, đây là việc dân sự và có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên đã tuyên hủy Bản án sơ thẩm và yêu cầu giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. Ngày 28/9/2007, TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định số 1875/QĐVDS-KDTM-ST tuyên hủy quyết định của ĐHĐCĐ, với tính cách là một việc dân sự[13]. Đồng thời, theo quan điểm của Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao thì trong thời gian tòa án chưa ra bản án có hiệu lực pháp luật tuyên hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ thì quyết định của ĐHĐCĐ vẫn có hiệu lực pháp luật[14]. Vấn đề này là chưa hợp lý bởi nếu sau khi tòa án tuyên hủy quyết định của ĐHĐCĐ thì giải quyết ra sao với quyết định này khi nó đã và đang được thực hiện. Theo chúng tôi, nếu hiểu theo cách quyết định của ĐHĐCĐ vẫn có hiệu lực, thì nên bỏ quyền yêu cầu hủy quyết định của ĐHĐCĐ tại Điều 107 Luật Doanh nghiệp năm 2005. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị quyết định của ĐHĐCĐ đang bị khởi kiện thì không có hiệu lực và những người khởi kiện nhưng không đúng sẽ phải bồi thường thiệt hại cho công ty. Như vậy vừa bảo đảm phán quyết có hiệu quả nhưng không ai dám lợi dụng quyền năng này để làm sai trái hay cản trở sự phát triển của công ty.
4. Kết luận
Qua những thay đổi trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, chúng ta có thể thấy doanh nghiệp đã được trao thêm quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh. So với Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Doanh nghiệp năm 2014 có nhiều quy định mới, trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến cơ chế bảo vệ cổ đông nhỏ trong CTCP. Bên cạnh những mặt tích cực, Luật Doanh nghiệp 2014 cần có các sửa đổi, bổ sung sau:
- Không quy định thời hạn sở hữu, đồng thời quy định tỷ lệ nhỏ hơn 10% của cổ đông phổ thông.
- Văn bản hướng dẫn thi hành cần quy định rõ thế nào là vi phạm nghiêm trọng, trong những trường hợp nào thì HĐQT đã vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông.
- Bổ sung quyền yêu cầu BKS: xem xét, trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của  HĐQT, báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm, và các báo cáo của BKS.
- Chỉ quy định Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ./.

 


[1] Bùi Xuân Hải, Luật Doanh nghiệp bảo vệ cổ đông - Pháp luật và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.127.
[2] Bùi Xuân Hải, Sđd, tr.129.
[3] Quách Thúy Quỳnh, Quyền của cổ đông thiểu số theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học, tháng 4/2010, tr. 19.
[4] Bùi Xuân Hải, Sđd, tr.198.
[5] Bùi Xuân Hải, Sđd, tr. 207.
[6] Bùi Xuân Hải, Sđd, tr. 266.
[7] Trương Thị Nam Thắng, “Một số điều chỉnh khuôn khổ thể chế về quản trị công ty tại bốn nước Đông Nam Á sau khủng hoảng”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 01/2008.
[8] Alan B. Morison, Những vấn đề cơ bản của luật pháp Mỹ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 528.
[10] Xem Điều 107 Luật doanh nghiệp năm 2005.
[11] Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao, Tham luận tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 2009 và triển khai nhiệm vụ năm 2010.
[12] Tham khảo tại địa chỉ: http://www.tin247.com/cong_nhan_cuoc_dao_chinh_o_cong_ty_day_sai_gon-6-21298499.html.
[13] Bùi Xuân Hải, Vấn đề hủy bỏ quyết định của đại hội đồng cổ đông theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp điện tử.
Tòa Kinh tế TAND tối cao, Tham luận về tình hình thụ lý giải quyết các vụ việc kinh doanh thương mại năm 2007, tr. 12.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 6(310) - tháng 3/2016)