Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử tại tòa án

01/12/2013

NGUYỄN THỊ TĨNH

Chánh tòa Kinh tế, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Xét xử án dân sự, hành chính là một trong những hoạt động tố tụng tại Tòa án, nó được coi là giai đoạn cuối của quá trình tố tụng. Nếu như ở giai đoạn hòa giải, chỉ một Thẩm phán Tòa án chủ trì phiên hòa giải, phối hợp với chuyên gia tư vấn pháp luật của đương sự để phổ biến pháp luật về quyền tự thỏa thuận cho người tham gia tố tụng, thì tại phiên tòa sơ thẩm có cả một Hội đồng xét xử (HĐXX) gồm một Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và hai Hội thẩm nhân dân, ngoài ra còn có Thư ký phiên tòa, các chuyên gia tư vấn pháp luật của đương sự và Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân trực tiếp thực hiện việc phổ biến pháp luật cho người tham gia tố tụng và nhân dân đến tham dự phiên tòa. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử gồm có ba Thẩm phán chuyên môn trong đó một Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên tòa. HĐXX sơ thẩm hay phúc thẩm đều thực hiện xét xử độc lập, biểu quyết theo đa số. Trong phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trực tiếp điều hành phiên tòa, các Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra để làm nhiệm vụ xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân tại phiên tòa. Thư ký phiên tòa làm nhiệm vụ ghi chép toàn bộ diễn biến phiên tòa. Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa với mục đích kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX. Về đối tượng tham gia phiên tòa cũng không còn giới hạn là những người tham gia tố tụng đơn thuần được Tòa án triệu tập như ở giai đoạn thu thập chứng cứ hoặc hòa giải, mà còn có thêm nhiều thành phần khác không liên quan đến vụ án nhưng quan tâm đến hoạt động xét xử của Tòa án hoặc quan tâm đến sự kiện tranh chấp đang được Tòa án giải quyết, đến tham dự phiên tòa xét xử công khai. Họ chính là lực lượng “học viên” đông đảo và đa thành phần nhất của quá trình giáo dục pháp luật trong hoạt động tố tụng tại Tòa án. Chỉ tính riêng trong hai năm 2010 và 2011, ngành Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk đã tiến hành xét xử hơn 9.000 vụ án dân sự, hành chính sơ thẩm và phúc thẩm. Tính bình quân mỗi phiên tòa có 05 người tiến hành tố tụng, 06 người tham gia tố tụng và khoảng 15 người tham dự phiên tòa, thì số lượt người trực tiếp tham gia tuyên truyền phổ biến pháp luật trong hoạt động xét xử lên tới hàng ngàn và số lượt người tham gia lĩnh hội kiến thức pháp luật từ hoạt động xét xử của Tòa án lên tới hàng chục ngàn người. Nếu lấy con số này nhân lên trong toàn ngành Tòa án cả nước thì số lượt người tham gia vào hoạt động “dạy” và “học” luật tổng hợp thông qua hoạt động xét xử của Tòa án là rất đáng kể. Vì vậy, vấn đề quan tâm hàng đầu ở đây là chất lượng tuyên truyền phổ biến pháp luật của hoạt động này. Để đạt được hiệu quả mong muốn thì yêu cầu đặt ra cho hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật của những người tiến hành tố tụng và các chuyên gia tư vấn pháp luật tại các phiên tòa là cần phải có kế hoạch cụ thể với một chương trình giáo dục pháp luật phong phú, đa dạng và khoa học. Các quy định của pháp luật được phổ biến tại phiên tòa phải được những người tiến hành tố tụng tổng hợp và chuẩn bị trước khi mở phiên tòa. Trong các quy định này, cần có những quy định về quyền được thỏa thuận của đương sự tại phiên tòa tương tự như ở giai đoạn hòa giải, có những quy định của các luật nội dung cần áp dụng trong từng quan hệ tranh chấp của vụ kiện và đặc biệt trong giai đoạn xét xử vụ án các quy định của pháp luật về chế tài dân sự mang tính răn đe, phòng ngừa cần được đưa vào nội dung chủ yếu của việc tuyên truyền phổ biến pháp luật. Thực tiễn cho thấy, chương trình giáo dục pháp luật cho người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự phiên tòa nói chung có các nội dung như sau:
Thứ nhất,  phổ biến nội quy phiên tòa cho người tham gia tố tụng (tức những người được triệu tập đến phiên tòa) và toàn thể nhân dân đến tham dự phiên tòa. Đồng thời nêu quyền và nghĩa vụ của từng thành phần tham gia tố tụng và quyền, nghĩa vụ của nhân dân tham dự phiên tòa thông qua thủ tục bắt đầu phiên tòa, tạo nên tính tôn nghiêm của phiên tòa.
Phổ biến nội quy phiên tòa cho người tham gia tố tụng và nhân dân đến tham dự phiên tòa là thủ tục bắt buộc cho mọi phiên tòa được quy định trong luật tố tụng, đây được coi là bước thứ nhất của phiên tòa. Về nội quy phiên tòa, có những điểm khác nhau giữa phiên tòa hình sự và phiên tòa dân sự, hành chính. Tuy nhiên, có năm điểm chung nhất cán bộ Tòa án cần phổ biến cho người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự trong tất cả các phiên tòa là: Mọi người trong phòng xử án phải tôn trọng HĐXX, chịu sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa, chỉ những người được Tòa án triệu tập mới được quyền trả lời câu hỏi của HĐXX, khi trả lời câu hỏi của HĐXX phải đứng dậy, trừ trường hợp được HĐXX cho ngồi trả lời vì lý do sức khỏe; Những người được triệu tập đến phiên tòa phải xuất trình giấy triệu tập kèm chứng minh thư nhân dân cho Thư ký phiên tòa; Trẻ em đưới 16 tuổi không được tham dự phiên tòa, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập; Không được mang vũ khí, chất nổ, chất cháy, các chất độc hại khác vào phòng xử án, trừ những người được nhà nước giao sử dụng vũ khí bảo vệ phiên tòa; Người nào vi phạm nội quy phiên tòa tùy tính chất mức độ của hành vi sẽ bị Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cảnh cáo, phạt tiền hoặc đuổi ra khỏi phòng xử án và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cảnh sát nhân dân thi hành việc bảo vệ phiên tòa theo sự điều hành của Chủ tọa phiên tòa.
Đồng thời với việc phổ biến nội quy phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những người được triệu tập đến phiên tòa, đối chiếu chứng minh thư nhân dân với người có mặt tham gia phiên tòa, tránh tình trạng đương sự lợi dụng phiên tòa đông người tráo đổi người tham gia tố tụng, làm sai lệch kết quả xét xử của Tòa án.
Việc phổ biến nội quy phiên tòa, kiểm tra căn cước của những người được triệu tập đến phiên tòa làm cho người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự phiên tòa nhận thức được tính tôn nghiêm của pháp luật tại phiên tòa, nhận thức được hậu quả pháp lý khi làm mất trật tự phòng xử án, tạo nên những ấn tượng trang nghiêm đầu tiên cho người tham gia tố tụng và nhân dân tham gia phiên tòa, gây tác động tâm lý quan trọng đối với họ trong suốt quá trình xét xử vụ án; tạo ra không khí tôn nghiêm của phòng xử án.
Sau khi phổ biến nội quy phiên tòa và kiểm tra căn cước của những người được triệu tập đến phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phổ biến quyền và nghĩa vụ cho người tham gia tố tụng và toàn thể nhân dân tham dự phiên tòa. Vấn đề quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được cán bộ Tòa án và các chuyên gia tư vấn pháp luật phổ biến cho đương sự và những người tham gia tố tụng khác xuyên suốt quá trình tham gia tố tụng ở các giai đoạn khởi kiện thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ và hòa giải. Nó không còn là vấn đề mới đối với người tham gia tố tụng. Tuy nhiên trong hoạt động xét xử phát sinh một số quyền và nghĩa vụ khác biệt của người tham gia tố tụng và người tham dự phiên tòa so với các giai đoạn khác cần được phổ biến, đó là: tại phiên tòa, đương sự có quyền thay đổi các thành viên của HĐXX và những người tiến hành tố tụng khác như Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa nếu có căn cứ cho rằng những người này tiến hành tố tụng tại phiên tòa sẽ làm cho phiên tòa mất tính khách quan và công bằng; có quyền tranh luận tại phiên tòa; có quyền kháng cáo án sơ thẩm và khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm trong thời hạn pháp luật cho phép. Nhân dân có quyền tự do tham dự phiên tòa xét xử công khai của Tòa án ở trụ sở tòa án cũng như các phiên tòa xét xử lưu động tại các địa phương, có trách nhiệm giữ gìn trật tự phiên tòa.
Việc phổ biến quyền và nghĩa vụ cho người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự phiên tòa tác động không nhỏ đến tâm lý của họ. Đương sự và những người tham dự phiên tòa luôn có cảm giác được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Họ hiểu được vị trí, quyền hạn, trách nhiệm cá nhân của mình tại phiên tòa và hành động đúng quy định của pháp luật.  
 Thực tiễn xét xử án dân sự, hành chính cho thấy, hoạt động phổ biến nội quy phiên tòa, kiểm tra căn cước của những người được triệu tập đến phiên tòa, phổ biến quyền và nghĩa vụ cho người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự phiên tòa là hoạt động tố tụng bắt buộc nhưng xét về bản chất, nó đồng thời cũng là hoạt động giáo dục pháp luật rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Một phiên tòa diễn ra trong sự trật tự, trang nghiêm là kết quả của việc nhận thức đúng pháp luật của những người tham gia tố tụng và người tham dự phiên tòa, hay nói cách khác, đó là hiệu quả thực tế của công tác giáo dục pháp luật trong hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng.
Thứ hai, giáo dục pháp luật đi đôi với việc thẩm tra xem xét, đối chiếu đánh giá chứng cứ thông qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa nhằm làm cho người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự phiên tòa thấy được tính công bằng, minh bạch của pháp luật và tính côngtâm của những người tiến hành tố tụng.
Đây được coi là bước quan trọng nhất của hoạt động giáo dục pháp luật trong giai đoạn xét xử. Hoạt động này được tiến hành dưới sự điều hành của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Khi tiến hành hoạt động xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm vừa phổ biến các điều luật về tố tụng và luật nội dung được áp dụng trong vụ kiện, vừa thẩm tra xem xét, đối chiếu và đánh giá toàn bộ chứng cứ có liên quan đến vụ kiện thông qua việc xét hỏi và tranh luận giữa các đương sự và những người tham gia tố tụng khác, dẫn dắt các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác trả lời thẳng vào từng nội dung tranh chấp cần tháo gỡ của vụ án. Những vấn đề Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chưa làm rõ sẽ được các Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và các chuyên gia tư vấn pháp luật cho đương sự tiếp tục làm rõ.
Tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa luôn giữ vai trò “nhạc trưởng” điều khiển HĐXX và những người tiến hành tố tụng khác thực hiện hoạt động xét hỏi gắn với việc phổ biến cho người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự phiên tòa những quy định của pháp luật nội dung như luật dân sự, đất đai, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động và các luật chuyên ngành khác phù hợp với từng quan hệ tranh chấp trong từng vụ kiện, từng bước dùng quy định của pháp luật để tháo gỡ những điểm nút tranh chấp chủ yếu của các bên trong vụ kiện.
Thực tiễn xét xử các vụ án dân sự ở ĐăkLăk cho thấy, đối với những phiên tòa giải quyết nhóm tranh chấp hợp đồng dân sự, trong quá trình xét hỏi và tranh luận, những người tiến hành tố tụng thường lồng ghép phổ biến cho những người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự phiên tòa biết và nhận thức được theo nguyên tắc chung của luật dân sự hiện hành thì thỏa thuận dân sự trong đời sống hàng ngày thể hiện sự tự do ý chí của cá nhân, tổ chức. Những thỏa thuận dân sự hợp pháp trong đời sống hàng ngày đều được pháp luật công nhận, bảo vệ và ràng buộc thực hiện. Tổ chức cá nhân vi phạm các thỏa thuận dân sự phải chịu hậu quả pháp lý đối với hành vi vi phạm của mình.  
Đối với những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, có điều luật áp dụng cụ thể, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không được chủ quan bỏ qua các bước xem xét đối chiếu chứng cứ với lời khai của các bên đương sự trong quá trình xét hỏi, tranh luận và đặc biệt không được bỏ qua việc lồng ghép phổ biến các điều luật áp dụng trong vụ kiện cho người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự phiên tòa. Khi tiến hành xét hỏi và chủ trì việc tranh luận của các bên đương sự, những người tiến hành tố tụng phải nhận thức được người tham gia tố tụng và người tham dự phiên tòa luôn mong muốn được nghe lời đối chứng giữa các bên đương sự, được nghe phân tích đánh giá chứng cứ một cách khách quan, vô tư và đặc biệt là họ cần biết sự kiện tranh chấp họ đang quan tâm, theo đuổi đã vi phạm điều luật nào, chế tài dân sự ra sao, hậu quả pháp lý mà người vi phạm phải gánh chịu đến mức nào, từ đó những người tiến hành tố tụng phải tìm cách để đáp ứng mong muốn của họ.
Tóm lại, trong quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa và những người tiến hành tố tụng khác có trách nhiệm làm cho những người tham gia tố tụng cũng như nhân dân tham dự phiên tòa hiểu và hình dung được toàn bộ diễn biến vụ tranh chấp, đối chiếu được các quy định của pháp luật đã được phổ biến tại phiên tòa vào từng quan hệ dân sự đang tranh chấp trong vụ kiện, biết được điểm nút tranh chấp của vụ kiện mà HĐXX đang tập trung sử dụng các quy định của pháp luật để tháo gỡ cho các bên đương sự, nhận thức được đúng sai, thấy được tính khách quan, minh bạch của quá trình xét hỏi và tranh luận và đặc biệt là thấy được tính công tâm, vô tư của HĐXX.
Một phiên tòa được đánh giá thành công là phiên tòa trong đó đương sự bị thua kiện vẫn “tâm phục khẩu phục”và có thể tự nguyện thỏa thuận giải quyết vụ kiện ngay tại phiên tòa, hoặc vì lý do nào đó đương sự không tự nguyện thỏa thuận giải quyết vụ kiện tại phiên tòa nhưng trong tâm thức sâu thẳm vẫn thấy được phần sai trái của mình và thấy được chế tài dân sự đối với hành vi sai trái của mình là xứng đáng. Còn đối với những người tham dự phiên tòa, họ hình dung được toàn bộ quan hệ tranh chấp dân sự trong vụ kiện, họ nhận thức được bên nào đúng, bên nào sai và lên tiếng bênh vực lẽ phải, tạo nên luồng dư luận tốt có sức ảnh hưởng lớn đến kết quả xét xử vụ kiện và thi hành bản án. Mặt khác, tiêu chí đánh giá phiên tòa thành công còn thể hiện ở chỗ, người tham gia tố tụng cũng như nhân dân tham dự phiên tòa đều lĩnh hội được kiến thức pháp luật tổng hợp trong hoạt động xét hỏi và tranh luận, có thêm trải nghiệm pháp luật mới để vận dụng vào đời sống hàng ngày, hình thành tình cảm pháp lý, tạo nên thói quen chấp hành pháp luật, lành mạnh hóa các quan hệ dân sự, giảm thiểu tranh chấp dân sự trong đời sống hàng ngày.
Thứ ba, phổ biến cho người tham gia tố tụng và toàn thể nhân dân tham gia phiên tòa biết tính cưỡng chế bắt buộc, tính răn đe, phòng ngừa của pháp luật thông qua bản án trong hoạt động tuyên án.
Đây là bước cuối cùng của giai đoạn xét xử. Sau khi HĐXX nghị án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thay mặt HĐXX tuyên án. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tất cả các bản án của HĐXX đều nhân danh cho quyền lực nhà nước. Bố cục của bản án đều được chia làm ba phần, cụ thể là: Phần mở đầu; Phần nội dung của vụ án và nhận định của HĐXX; Phần quyết định.
Phần mở đầu của bản án ghi tên Tòa án trực tiếp xét xử, số ngày thụ lý vụ án, số ngày quyết định đưa vụ án ra xét xử, số bản án và thời gian địa điểm xét xử; họ tên của HĐXX và những người tiến hành tố tụng khác như Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa; tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án và những người tham gia tố tụng khác; hình thức xét xử công khai hoặc xét xử kín.
Phần nội dung của vụ án ghi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị, yêu cầu phản tố của bị đơn, đề nghị, yêu cầu độc lập của người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ kiện. Phần nhận định của HĐXX ghi điểm, khoản và điều luật của văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) mà HĐXX căn cứ để giải quyết vụ kiện. Phần nhận định của HĐXX trong bản án phải phân tích rõ những căn cứ chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu đề nghị của đương sự và những người tham gia tố tụng khác.
Phần quyết định của bản án ghi các quyết định của HĐXX về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về án phí, về quyền kháng cáo đối với bản án. Trường hợp bản án phúc thẩm phải ghi rõ án có hiệu lực pháp luật sau khi HĐXX tuyên án.
Về mặt lý thuyết thì tất cả các bản án đều có bố cục theo quy định của luật tố tụng. Tuy nhiên trong thực tế xét xử không phải bản án của bất kỳ Thẩm phán nào khi được HĐXX tuyên án cũng đạt được được hiệu quả giáo dục pháp luật như mong muốn. Thực tiễn xét xử án dân sự cho thấy, một bản án có sức thuyết phục người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự phiên tòa, có tính giáo dục cao đó là bản án thể hiện được sự kết tinh của quá trình tố tụng từ giai đoạn khởi kiện thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, hòa giải cho đến giai đoạn xét xử tại phiên tòa. Nghĩa là bản án đó phải thể hiện được toàn cục vụ tranh chấp, các điểm nút tranh chấp cần tháo gỡ, điều luật áp dụng và chế tài dân sự cho mỗi quan hệ tranh chấp. Cách lập luận trong bản án phải sắc bén, cách viện dẫn điều luật áp dụng phải chính xác trên cơ sở phân tích đầy đủ và khách quan những chứng cứ, tình tiết đã được thẩm tra đối chất tại phiên tòa. Bản án cần phải xác định rõ quyền, nghĩa vụ, mức lỗi và trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm vật chất của từng bên. Các luận cứ, luận điểm, luận chứng trong bản án phải rõ ràng, mạch lạc mang tính mệnh lệnh hành chính cao. Phần nhận định trong bản án và phần quyết định của bản án phải thống nhất với nhau. Ngôn ngữ trong bản án phải ngắn gọn, dễ hiểu và đặc biệt là dễ thi hành. Đây là một trong những yêu cầu khó khăn mà trong thực tế xét xử án dân sự, hành chính vẫn còn có những bản án của một số Thẩm phán Tòa án chưa đáp ứng được.
Để phát huy hết hiệu quả giáo dục của bản án thông qua hoạt động tuyên án, hình thức tuyên án cũng là vấn đề cần được Thẩm phán chủ tọa phiên tòa lưu ý, đó là khi tuyên án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa yêu cầu các thành viên trong HĐXX, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa và tất cả những người có mặt trong phòng xử án đứng dậy. Việc tuyên án cần dõng dạc, rành mạch, rõ ràng, bảo đảm cho người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự phiên tòa nghe rõ toàn văn bản án, thấy được tính cưỡng chế bắt buộc, tính răn đe, phòng ngừa của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự, từ đó họ có hướng kiểm soát chặt chẽ hành vi dân sự của mình trong đời sống hàng ngày, tạo nên thói quen chấp hành pháp luật và tạo thành nét văn hóa pháp lý trong quan hệ dân sự.
Một số khó khăn thường gặp trong giáo dục pháp luật ở giai đoạn xét xử và giải pháp khắc phục:
- Một khó khăn “muôn thủa” trong công tác giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử án dân sự, hành chính của Tòa án là hệ thống pháp luật dân sự nước ta hiện nay có quá nhiều VBQPPL cùng áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp dân sự, dẫn đến việc những người tiến hành tố tụng phải phổ biến nhiều quy định của nhiều VBQPPL cùng một lúc tại phiên tòa, gây khó khăn cho việc tiếp thu kiến thức pháp luật của những người tham gia tố tụng và nhân dân tham dự phiên tòa, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả giáo dục pháp luật trong hoạt động xét xử. Các VBQPPL về dân sự thường xuyên thay đổi làm vô hiệu hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của giai đoạn trước khi VBQPPL có thay đổi. Các VBQPPL mang tính chuyên ngành có những quy định không phù hợp, thậm chí đối nghịch với quy định của Bộ luật Dân sự, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật vào vụ kiện và khó khăn cho công tác phổ biến pháp luật của những người tiến hành tố tụng.
- Kinh phí từ một trăm năm mươi ngàn đến hai trăm ngàn đồng cho một vụ kiện dân sự hiện nay là quá thấp để thực hiện việc giải quyết vụ kiện, chưa nói đến việc chuẩn bị nội dung tuyên truyền phổ biến pháp luật của những người tiến hành tố tụng. Chế độ lương, chế độ bảo vệ và bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ hiện còn nhiều bất cập. Cụ thể, lương của cán bộ Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện nói chung hiện nay không theo kịp sự biến động của giá cả, không đủ trang trải cuộc sống cho gia đình và hệ quả là Thẩm phán không thể tập trung tối đa thời gian và sức lực cho công việc. Đâu đó trong ngành Tòa án vẫn còn những Thẩm phán vì áp lực kinh tế khó khăn đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Trong hoạt động giải quyết tranh chấp dân sự nói riêng và hoạt động xét xử của Tòa án nói chung, sự đe dọa an toàn tính mạng và áp lực bổ nhiệm theo nhiệm kỳ của Thẩm phán cũng là nguyên nhân làm giảm tính quyết tâm bảo vệ công lý, công bằng và lẽ phải của Thẩm phán Tòa án.  
- Chương trình đào tạo các chức danh tư pháp hiện nay còn thiên về đào tạo kỹ năng xét xử các loại án, chưa có chương trình đào tạo nghiệp vụ tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tố tụng cho cán bộ Tòa án, cán bộ Kiểm sát cũng như Hội thẩm nhân dân. Trên thực tế, những người tiến hành tố tụng thực hiện việc phổ biến pháp luật cho người tham gia tố tụng và nhân dân trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự hiện nay chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tế của bản thân là chính.
Để khắc phục những khó khăn trong công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử án dân sự, hành chính của Tòa án hiện nay, trước hết cần có sự sửa đổi lớn hệ thống luật dân sự và đặc biệt là sửa đổi Bộ luật Dân sự. Rà soát các VBQPPL về dân sự hiện hành, loại trừ các quy định trùng lặp và đồng hóa những quy định đối nghịch về giải quyết tranh chấp dân sự trong các VBQPPL về dân sự.  
Cần có một chế độ lương thỏa đáng, ổn định đời sống cho cán bộ ngành Tư pháp nói chung và đặc biệt là Thẩm phán Tòa án nói riêng, đồng thời thay đổi chế độ bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ bằng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời. Tăng cường chế độ bảo vệ Thẩm phán, tránh tình trạng tính mạng của Thẩm phán bị đe dọa trong đời sống hàng ngày cũng như khi thi hành nhiệm vụ. Đưa chương trình đào tạo nghiệp vụ tuyên truyền phổ biến pháp luật vào chương trình đào tạo các chức danh tư pháp nhằm trang bị cho những người tiến hành tố tụng một số kiến thức “sư phạm” cơ bản về giáo dục pháp luật thông qua  hoạt động tố tụng tại Tòa án nói chung và hoạt động xét xử nói riêng. /.
        

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24(256), tháng 12/2013)


Thống kê truy cập

32772236

Tổng truy cập