Các khía cạnh xã hội của hoạt động giáo dục pháp luật

01/09/2016

TS. PHẠM THỊ DUYÊN THẢO

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

1. Khái quát về giáo dục pháp luật 
Giáo dục pháp luật (GDPL), ở góc độ rộng, được xem như một bộ phận của hoạt động giáo dục, có tính độc lập và có quan hệ với các hoạt động khác như kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng. Ở góc độ này, GDPL được đánh giá tương đồng với quá trình xã hội hóa cá nhân. Tức là, GDPL hình thành và diễn ra song song với quá trình cá nhân sinh ra, trưởng thành về mặt tâm sinh lý, thậm chí đến khi hết đời người. Theo quan điểm của G.Mead, xã hội hóa cá nhân trải qua ba giai đoạn: bắt chước, đóng vai, trò chơi. Ở các giai đoạn này, vai trò của người lớn, của xã hội có ý nghĩa quyết định đối với quá trình nhận thức, thực hiện hành vi của trẻ em. Hành vi của người lớn, dù chủ động hay thụ động, đều là sản phẩm của xã hội, của pháp luật và quá trình hiện thực hóa nó. Theo quan điểm của G. Andreeva, xã hội hóa cá nhân gồm ba giai đoạn: giai đoạn trước lao động, giai đoạn lao động và giai đoạn sau lao động. Các giai đoạn này đều liên quan đến giáo dục, trong đó có GDPL[1]. Nhìn nhận ở góc độ này, cho thấy tính tất yếu của hoạt động GDPL, tuy nhiên, GDPL sẽ thiên về yếu tố định tính hơn, mà thiếu các định lượng và chỉ báo cần thiết theo yêu cầu thực tiễn.
Ở góc độ hẹp, GDPL nhằm chỉ cụ thể quá trình tác động có mục đích, chủ động, có kế hoạch, tổ chức của các chủ thể giáo dục lên đối tượng được giáo dục, về các nội dung liên quan đến pháp luật, nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Quan điểm theo góc độ hẹp sẽ giúp cho hoạt động GDPL cụ thể, tập trung và có kế hoạch hơn, dễ nâng cao hiệu quả tác động và đạt mục đích GDPL. Vì thế, GDPL thường được các nghiên cứu tiếp cận ở góc độ hẹp. GDPL là quá trình tác động có mục đích, tổ chức, theo những hình thức, phương pháp và nội dung nhất định của chủ thể GDPL đến các đối tượng được GDPL, nhằm hình thành ở họ nhận thức, tri thức về pháp luật, thói quen và hành vi xử sự tích cực theo pháp luật.
Ở Việt Nam, GDPL là vấn đề được Đảng, Nhà nước ngày càng chú trọng. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, GDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Chỉ thị đã thể hiện sự phát triển về nhận thức và lãnh đạo công tác phổ biến, GDPL của Đảng, Nhà nước trong việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Theo đó, việc ra đời Luật Phổ biến, GDPL năm 2012, cùng các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết đã tạo cơ sở pháp lý căn bản cho hoạt động này.
GDPL mang những đặc trưng như:
GDPL có mục đích cung cấp kiến thức pháp luật, hình thành nhận thức, tình cảm, thói quen hành xử theo pháp luật của các đối tượng được giáo dục
GDPL luôn là hành động mang tính chủ động, được chủ thể giáo dục tiến hành vì những mục đích trực tiếp là hình thành nhận thức, tình cảm, thói quen hành xử theo pháp luật. Các cấp độ mục đích này được xếp theo thứ tự tăng dần, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết và là tiền đề của nhau. Mục đích xa hơn của GDPL là tạo sự ổn định, phát triển xã hội, đảm bảo cao nhất các quyền con người. Các mục đích này sẽ tác động đến hàng loạt khía cạnh khác của GDPL như phương pháp, hình thức, nội dung giáo dục.
GDPL có mối quan hệ mật thiết với nhiều loại hình giáo dục khác
GDPL có mối quan hệ với tất cả các loại hình giáo dục khác vì nằm trong hoạt động giáo dục nói chung, đặc biệt, GDPL có quan hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục kỹ năng sống, bởi giữa chúng có nhiều điểm tương đồng ở nội dung, mục đích, cách thức thực hiện.
GDPL được tiến hành bởi nhiều chủ thể
Chủ thể GDPL là tất cả những cá nhân, tổ chức tham gia vào việc thực hiện các mục đích, mục tiêu GDPL cho đối tượng tiếp nhận pháp luật. Các chủ thể GDPL rất đa dạng, với địa vị pháp lý, phương pháp khác nhau nhưng cùng chung một mục đích là hướng đến việc hình thành nhận thức, tình cảm, thói quen hành xử theo pháp luật của đối tượng giáo dục. Theo Luật Phổ biến, GDPL năm 2012, chủ thể có trách nhiệm GDPL là các cơ quan trong bộ máy nhà nước, Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên, các tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội nghề nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp, của các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân và các gia đình, cá nhân trong xã hội...
GDPL có đối tượng tiếp nhận giáo dục rộng lớn, đa dạng
Tùy từng hình thức, nội dung GDPL mà đối tượng GDPL được xác định cụ thể phù hợp, nhưng tựu trung, đối tượng tiếp nhận giáo dục có thể là tất cả các thành viên trong xã hội, ở bất cứ lứa tuổi, giới tính, trình độ, tôn giáo nào, trừ những đối tượng có nhược điểm về tâm thần theo quy định của pháp luật. Nhóm đối tượng GDPL có thể phân thành nhiều loại dựa vào các tiêu chí khác nhau. Luật Phổ biến, GDPL năm 2012 đã nhấn mạnh đến nhóm đối tượng là người dân ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân; nhóm người lao động trong các doanh nghiệp; nhóm nạn nhân bạo lực gia đình; người khuyết tật; người đang chấp hành hình phạt tù, người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn... Việc phân hóa đối tượng GDPL để có phương pháp, nội dung và mức độ giáo dục phù hợp là khoa học và cần thiết.
GDPL có phương pháp và hình thức giáo dục phong phú
Xuất phát từ sự đa dạng về chủ thể, đối tượng giáo dục mà GDPL có phương pháp và hình thức giáo dục phong phú. Phương pháp, hình thức giáo dục hiểu cơ bản là cách thức, loại hình mà các chủ thể giáo dục tiến hành GDPL cho các đối tượng tiếp nhận giáo dục nhằm hiện thực hóa các mục tiêu GDPL. Phương pháp, hình thức GDPL góp phần quyết định chất lượng, hiệu quả của hoạt động này. Luật Phổ biến, GDPL năm 2012 đã quy khá nhiều hình thức phổ biến, GDPL như: họp báo, thông cáo báo chí; phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật; thông qua các phương tiện thông tin đại chúng; thi tìm hiểu pháp luật; qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở; các hình thức phổ biến, GDPL khác phù hợp với từng đối tượng cụ thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho công tác phổ biến, GDPL đem lại hiệu quả...
Nội dung GDPL là các vấn đề liên quan đến pháp luật, đời sống pháp lý
Tùy từng quốc gia, hệ thống pháp luật cũng như đối tượng GDPL khác nhau mà nội dung pháp luật có sự khác nhau nhất định. Theo Luật Phổ biến, GDPL năm 2012, nội dung GDPL bao gồm: Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật; Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế; Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật.
GDPL là hoạt động chịu sự tác động, điều chỉnh của các quy định pháp luật liên quan đến GDPL do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện
GDPL là hoạt động mang tính định hướng, tác động vào các đối tượng tiếp nhận giáo dục nhằm làm cho các đối tượng này nhận thức được đúng đắn, đầy đủ nội dung, tinh thần chính sách, pháp luật của Nhà nước, các vấn đề pháp luật liên quan khác, từ đó hình thành tư duy, ứng xử phù hợp pháp luật. GDPL phải tuân theo những quy định pháp luật cụ thể từ quy trình, nguyên tắc, định hướng, các điều kiện về chủ thể... để một mặt, làm cho hoạt động này phát huy được vai trò, thực hiện được mục tiêu, mặt khác, là cơ sở để có thể ràng buộc trách nhiệm, đánh giá hiệu quả cũng như xử lý những vi phạm pháp luật liên quan trong quá trình GDPL.
2. Bản chất xã hội của giáo dục pháp luật  
- GDPL là một trong những yếu tố cơ bản của cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức tổ chức xã hội bên trong của hệ thống xã hội nhất định - biểu hiện như là sự thống nhất tương đối bền vững của các nhân tố, các mối liên hệ, các thành phần cơ bản nhất của hệ thống đó. Những thành tố này tạo ra bộ khung cơ bản nhất cho xã hội loài người. Những thành tố cơ bản nhất của cơ cấu xã hội bao gồm: nhóm với vai trò, vị thế của nó và các thiết chế xã hội[2].
Nhóm xã hội là khái niệm xã hội học cơ bản dùng để chỉ tập thể hai người trở lên có liên hệ với nhau theo một kiểu nhất định. Nhóm xã hội bao gồm nhóm xã hội nhỏ (tập hợp ít người, có quan hệ trực tiếp và tương đối ổn định) và nhóm xã hội lớn (các cộng đồng nhóm). Vị thế xã hội là khái niệm dùng để chỉ vị trí (chỗ đứng) của cá nhân nào đó trong xã hội và mối quan hệ giữa cá nhân đó với người xung quanh. Vai trò được hiểu là tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền và nghĩa vụ gắn liền với vị thế xã hội nhất định.
Thiết chế xã hội là tập hợp bền vững của các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh nhu cầu cơ bản của xã hội. Thiết chế xã hội bao gồm cơ cấu bên ngoài (hình thức vật chất của thiết chế) hoặc theo cơ cấu bên trong (nội dung hoạt động của thiết chế). Trong xã hội, có nhiều loại thiết chế, mà quan trọng nhất là thiết chế chính trị, pháp luật, kinh tế, gia đình, giáo dục.
Các thiết chế trên, đặc biệt là thiết chế pháp luật, giáo dục (đi liền với nó là GDPL - một trong những phương diện nội dung của thiết chế) lại luôn có hai chức năng chủ yếu: một là, khuyến khích, điều hòa, điều chỉnh hành vi của con người phù hợp với các quy phạm xã hội, chuẩn mực của thiết chế và tuân thủ thiết chế; hai là, ngăn chặn, kiểm soát những hành vi lệch lạc do thiết chế xã hội quy định.
- GDPL xuất phát từ nhu cầu, thực trạng xã hội
Các quy định pháp luật và quan hệ xã hội không bao giờ có sự tương thích hoàn toàn, bởi luôn có sự vận động, biến đổi không ngừng. Bản thân pháp luật cũng luôn cần có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp và dự liệu cao nhất với sự biến động của quan hệ xã hội đó. Hai sự thay đổi liên tục này đã làm phức tạp đời sống pháp lý, gây khó khăn, áp lực cho người dân trong quá trình thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Nhà nước, với vị trí là đại diện cho quyền lợi và chịu trách nhiệm trước toàn xã hội phải tiến hành tổ chức hoạt động GDPL, nhằm cung cấp kiến thức pháp luật, xây dựng thói quen thực hiện pháp luật cho người dân. Người dân, các nhóm, với vị trí là các chủ thể của quyền con người, phải được quyền tiếp nhận hoạt động phổ biến, GDPL. Do đó có thể thấy, GDPL xuất hiện như một tất yếu khách quan, từ thực trạng và nhu cầu của mỗi người dân, xã hội.
- GDPL chịu sự tác động, được đảm bảo bởi các điều kiện xã hội
Ở góc độ chung nhất, các yếu tố pháp lý, xã hội sau đây có tác động đến GDPL: đội ngũ chủ thể làm công tác GDPL, điều kiện lịch sử, xã hội, kinh tế, văn hóa cụ thể của GDPL, cơ chế tâm lý, xã hội của việc GDPL và tiếp nhận GDPL, hoạt động thực tế của chủ thể GDPL, chất lượng của hệ thống pháp luật. Đó cũng chính là những yếu tố, những đảm bảo xã hội quan trọng của công tác này, làm cho nó có thể được thực hiện, phát huy hiệu quả và hiệu lực trong thực tiễn xã hội.
- GDPL quy tụ sự tham gia của các thành phần xã hội
Với mục tiêu lớn nhất là hình thành nhận thức về pháp luật, hành xử đúng yêu cầu của pháp luật của con người, tạo động lực cho xã hội ổn định, phát triển. GDPL là nhu cầu đồng thời là nghĩa vụ, trách nhiệm của tất cả các chủ thể trong xã hội, từ nhà nước, các cơ quan, tổ chức, gia đình, nhóm xã hội đến từng cá nhân.
- GDPL thực hiện các chức năng của một cơ chế hoạt động xã hội
Ở phương diện cơ chế hoạt động xã hội, GDPL thực hiện chức năng: thông tin, định hướng, bảo vệ. Các chức năng này có mối quan hệ mật thiết, chúng là phương tiện, là mục tiêu của nhau. GDPL trước hết thực hiện chức năng thông tin các vấn đề về pháp luật đến các chủ thể tiếp nhận GDPL. Từ đó, hình thành nhận thức, các tri thức pháp luật của chủ thể, góp phần định hướng, thay đổi hành vi cho phù hợp với các chuẩn mực, với yêu cầu của pháp luật. Khi một hệ các quy chuẩn đã được tạo lập thông qua ý thức và hành vi pháp luật của các chủ thể pháp luật, thì những quan hệ xã hội liên quan sẽ được bảo vệ, rộng ra là trật tự xã hội, trật tự pháp luật, quyền con người sẽ được bảo vệ.
- GDPL góp phần gắn kết xã hội, hình thành và đào luyện nhân cách con người trong xã hội
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, các chuẩn mực có vai trò duy trì, ổn định các quan hệ xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của các thành viên, các nhóm, bảo vệ kết cấu xã hội. GDPL pháp luật cung cấp cho chủ thể tiếp nhận các kiến thức pháp luật giúp họ có thể bảo vệ được lợi ích, quyền của chính họ, nhưng đồng thời cũng để họ không vi phạm quyền, lợi ích của các chủ thể khác, của xã hội. Trong quá trình nhận thức và hiện thực hóa quyền của mình, các chủ thể pháp luật có thể đồng thời phải tôn trọng, thực hiện hàng loạt các nghĩa vụ tích cực để đáp ứng quyền của chủ thể khác. Đồng thời tất cả các thành viên nếu được GDPL hiệu quả, sẽ nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình phù hợp yêu cầu chung, nhằm bảo vệ an toàn và lợi ích của cả xã hội. Tác động kép này của GDPL đã tạo sự gắn kết ngày càng bền vững giữa các thành viên trong xã hội.
Pháp luật (cùng với văn hóa) hợp người ta lại với nhau một cách vừa chủ động, vừa thụ động. Nó chứa đựng và giải thích những giá trị xã hội khiến cho người ta có thể nhận định và phán đoán điều hay dở. Chính qua pháp luật, văn hóa mà con người tìm thấy ý nghĩa và mục đích của nếp sống có văn hóa và tuân thủ pháp luật của từng cá nhân của cả xã hội. Pháp luật cũng chiếm vị trí ưu thế trong sự thành lập và đào luyện nhân cách xã hội, bởi pháp luật về cơ bản phù hợp và tôn vinh các giá trị văn hóa đích thực. Trong khi đó, con người vốn tự chủ, có thể lựa chọn và thích nghi, nhưng nhân cách xã hội của mỗi người lại bị lệ thuộc không nhỏ vào văn hóa. Do đó, như một hệ quả phái sinh, GDPL cũng sẽ chiếm vị trí ưu thế trong sự thành lập và đào luyện nhân cách xã hội.
3. Vai trò của giáo dục pháp luật trong đời sống xã hội
- Góp phần kết nối pháp luật với nhận thức và hành vi của người dân trong xã hội
Sản phẩm của quá trình xây dựng pháp luật là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó, xác lập lên một hệ quy tắc hành vi cho các chủ thể trong xã hội, khi tham gia vào những quan hệ pháp luật nhất định. Hệ thống các quy tắc hành vi này ngày càng đa dạng, phức tạp, do sự vận động và biến đổi không ngừng của các quan hệ xã hội. Để hiện thực hóa, cần có quá trình thực hiện pháp luật một cách chủ động, tích cực thông qua các hành vi hợp pháp của các chủ thể.
Tuy nhiên, từ nhiều lý do, các chủ thể pháp luật hoặc là vi phạm, không thực hiện, thậm chí không biết đến các quy định pháp luật này, dẫn đến hiệu qủa, hiệu lực pháp luật thấp. Vậy nên, một trong những kênh quan trọng giúp cải thiện tình trạng trên là phải tiến hành công tác GDPL. Bởi bản chất của hoạt động GDPL là tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất cuả đối tượng được giáo dục, nhằm làm cho đối tượng được giáo dục có được những phẩm chất, năng lực như yêu cầu đề ra, tức là có kiến thức pháp luật, thói quen hành xử và tuân thủ pháp luật. Nhờ GDPL mà pháp luật đến được với mọi người, chuyển các quy định trên giấy vào thực tiễn nhờ quá trình nhận thức và thực hiện hành vi, làm cho pháp luật thực sự phát huy tác dụng trong đời sống.
- Góp phần bảo vệ pháp luật, trật tự, phát triển xã hội
Nhờ có GDPL mà quy định pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống, trở thành nhận thức đúng đắn, hành vi hợp pháp của các chủ thể. Đó không chỉ là việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, mà chính là việc bảo vệ sự sống của pháp luật. Pháp luật được ban hành phải được thực hiện, phải biến thành phương tiện để người dân thực hiện quyền của mình, phải là công cụ để Nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong quá trình vận hành đó, pháp luật lại được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và lại tiếp tục quy trình "sống" của nó. Và đây chính là cơ sở để tạo nên sự phát triển của cá nhân, sự ổn định, trật tự và phát triển xã hội.
- Góp phần nâng cao trách nhiệm của Nhà nước, các chủ thể khác trong việc xây dựng và phát triển một xã hội sống và làm việc theo pháp luật
Cùng với xây dựng pháp luật, Nhà nước có trách nhiệm làm cho pháp luật đi vào cuộc sống, phát huy liệu lực, hiệu quả, phục vụ đời sống nhân dân. Trách nhiệm của Nhà nước không chỉ là việc trực tiếp thực hiện các hoạt động GDPL, mà còn là việc định hướng, tạo môi trường pháp lý, xã hội khả thi để cho các chủ thể khác trong xã hội nhận thức, phát huy vai trò của họ trong công tác GDPL. Để sao cho, GDPL trở thành trách nhiệm của mỗi cơ quan, ban ngành, tổ chức, mỗi cá nhân nhằm hình thành, phát triển một xã hội sống và làm việc theo pháp luật.
- Góp phần bảo vệ các chuẩn mực khác của xã hội
Suy cho cùng, giá trị cao nhất của các chuẩn mực xã hội như pháp luật, đạo đức, phong tục, tập quán, chính trị, thẩm mỹ đều gặp nhau ở một điểm, đó là tôn trọng nhân phẩm, phẩm giá, các quyền và lợi ích thiết thân của con người, hướng đến sự an toàn, bền vững và phát triển xã hội.
Tuy nhiên, khác với các chuẩn mực xã hội khác, chỉ có pháp luật mới có phạm vi điều chỉnh, đối tượng tác động rộng và có sự thích ứng xã hội mạnh mẽ, đồng thời mới được ban hành theo một quy trình, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Đến một mức độ phát triển nhất định, pháp luật sẽ bao chứa hầu hết các giá trị của những chuẩn mực khác trong xã hội, và trở thành nhân tố bảo đảm và bảo vệ các chuẩn mực đó.
- Có mối quan hệ mật thiết với giáo dục quyền con người, góp phần hiện thực hóa quyền được thông tin về pháp luật của công dân
Giáo dục quyền con người là "tất cả những hiểu biết nhằm phát triển kiến thức, kỹ năng và giá trị của nhân quyền". Giáo dục quyền con người và GDPL có mối quan hệ mật thiết. GDPL có mục tiêu cao nhất là đảm bảo quyền con người. Còn giáo dục quyền con người bắt buộc phải thông qua phương thức GDPL. Chúng tương hỗ nhau, cùng hướng tới những mục tiêu như: tạo ra sự thay đổi về quan niệm giá trị, thay đổi hành vi; nhận thức về trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tế; hướng tới, thúc đẩy các nguyên tắc nền tảng của tự do trong xã hội; phát triển các kỹ năng giao tiếp, tính sáng tạo trong suy nghĩ, hành động của đối tượng GDPL khi hiện thực hóa quyền, xây dựng xã hội dân chủ.
4. Các điều kiện, đảm bảo xã hội của giáo dục pháp luật   
Hoạt động GDPL tiến hành như thế nào phụ thuộc vào các điều kiện, đảm bảo xã hội của GDPL. Các điều kiện này có thể thuộc về ý thức của chủ thể, đối tượng GDPL, cũng có thể là yếu tố bên ngoài. Giữa chúng có quan hệ qua lại, cùng có tác động khác nhau lên GDPL. Điển hình như:
- Điều kiện về chủ thể và đối tượng GDPL.
Chủ thể và đối tượng GDPL là tổng thể các cá nhân, tổ chức, các nhóm tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình GDPL.Ở góc độ trực tiếp, bao gồm: các cá nhân, cơ quan tổ chức thực hiện hoạt động GDPL, các cá nhân, tổ chức là đối tượng tiếp nhận hoạt động GDPL cùng với ý thức trách nhiệm, trình độ, năng lực truyền đạt, tiếp nhận pháp luật của họ. Ở góc độ gián tiếp, là các chủ thể có thẩm quyền trong việc quản lý hoạt động GDPL, đông đảo người dân trong xã hội với tư cách là chủ thể của dư luận xã hội, phản biện xã hội trong việc đánh giá hiệu quả GDPL. Con người là yếu tố tác động trực diện và thường xuyên lên hoạt động GDPL, ở bất cứ mục tiêu và giai đoạn nào của xã hội. Hiệu quả hoạt động GDPL phụ thuộc trước tiên vào các chủ thể GDPL, thường tỷ lệ thuận với năng lực, ý thức pháp luật, nhận thức, phương pháp của các chủ thể GDPL. Bên cạnh đó là ý thức pháp luật của các đối tượng tiếp nhận giáo dục, các chủ thể quản lý công tác GDPL. Hoạt động GDPL sẽ khó đảm bảo hiệu quả nếu nhận thức của các chủ thể tiếp nhận GDPL thấp hoặc
- Điều kiện kinh tế, xã hội.Yếu tố này bao gồm các điều kiện về kinh tế, hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, cơ cấu xã hội, quá trình triển khai chính sách pháp luật trong thực tế. Kinh tế, xã hội có tác động quyết định, tỷ lệ thuận với sự phát triển, hiệu quả của GDPL ở các khía cạnh như phạm vi, quy mô, nguồn lực thực hiện.
- Điều kiện chính trị, xã hội.Là tổng thể những bộ phận, dạng thức tạo nên đời sống chính trị của xã hội ở từng giai đoạn nhất định, như: môi trường, hệ thống chuẩn mực chính trị, định hướng chính trị của đảng cầm quyền, các thiết chế chính trị, nền tảng dân chủ. Các yếu tố này tác động vừa trực tiếp, vừa gián tiếp đến hoạt động GDPL, nhất là những hoạt động hướng tới nhóm tiếp cận GDPL là các cán bộ, công chức nhà nước.
- Điều kiện văn hóa, hệ tư tưởng.Yếu tố văn hóa, tư tưởng thường được xác định trong một môi trường và không gian xã hội xác định. Văn hóa góp phần quyết định hình thành và đào luyện nhân cách con người trong xã hội. Nhân cách con người về cơ bản có sự tương đồng với các chuẩn mực xã hội, với chuẩn mực pháp luật. Các khía cạnh cơ bản của văn hóa, tư tưởng có ảnh hưởng lớn đền GDPL gồm: các giá trị văn hóa, tư tưởng truyền thống và hiện đại, phong tục, tập quán, văn hóa, ý thức pháp luật, dư luận xã hội...
- Điều kiện pháp lý.Là tổng thể các thành tố của hệ thống pháp luật, cơ chế xây dựng, vận hành, thực hiện và bảo vệ pháp luật liên quan đến GDPL. Bên cạnh đó còn là ý thức pháp luật, pháp chế và hiệu quả điều chỉnh xã hội của pháp luật. Các khía cạnh này tác động lên hoạt động GDPL ở những khía cạnh khác nhau. Nhưng đây là yếu tố căn bản đối với hoạt động GDPL. Bởi không chỉ quyết định nội dung GDPL, nó còn tạo ra cơ sở pháp lý cho toàn bộ hoạt động GDPL, cho quá trình thực hiện quyền, trách nhiệm của Nhà nước và các chủ thể liên quan. Nó cũng tạo ra hệ các tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt động GDPL trong thực tiễn, là cơ sở pháp lý để xử lý các vi phạm pháp luật tương ứng phát sinh.
5. Hiệu quả xã hội của giáo dục pháp luật   
Hiệu quả GDPL là khía cạnh quan trọng của xã hội học GDPL, là "kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại". Đây là động lực và mục tiêu của chủ thể GDPL, của cả Nhà nước và xã hội. Trong quá trình GDPL, tùy theo đối tượng, nội dung mà các chủ thể GDPL sẽ lựa chọn hình thức và phương pháp GDPL cụ thể. Tùy theo tính chất, đặc điểm của từng hình thức GDPL, quá trình GDPL sẽ kết thúc ở những thời điểm khác nhau. Thời điểm kết hoạt động GDPL cũng chính là thời điểm xác định hiệu quả hoạt động GDPL. Để đánh giá hiệu quả hoạt động GDPL, cần phải xem xét toàn bộ quá trình GDPL, theo những tiêu chí nhất định:
- Mức độ hiểu biết, ý thức pháp luật của các đối tượng GDPL trong xã hội
Mục tiêu đầu tiên của GDPL là cung cấp các kiến thức pháp luật liên quan cho đối tượng tiếp nhận GDPL. Do vậy, hiểu biết, ý thức pháp luật của các đối tượng GDPL trong xã hội được xem là tiêu chí đánh giá đầu tiên, ở cấp độ phổ biến nhất của GDPL. Tiêu chí này thể hiện ở việc, các đối tượng GDPL sau khi được GDPL, có thái độ đúng đắn, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật, với hành vi pháp lý của các chủ thể pháp luật, nhận thức được đúng tinh thần, nội dung các quy định pháp luật, cũng như cơ chế tổ chức thực hiện, đảm bảo pháp luật trong thực tế. Các chủ thể biết quan tâm đến đời sống pháp luật, nhận thức được hệ thống quyền và nghĩa vụ của mình trong mối tương quan với quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khác trong xã hội.
- Mức độ hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật
Đây là tiêu chí ở cấp độ cao hơn của hiệu quả GDPL. Sau khi đã có ý thức pháp luật, các chủ thể pháp luật sẽ có sự điều chỉnh hành vi phù hợp với quy định xã hội, dần hình thành nên thói quen tuân theo pháp luật. Hành vi hợp pháp của chủ thể có thể là hành động hoặc không hành động, phù hợp với các quy định cấm đoán, cho phép hoặc bắt buộc thực hiện của pháp luật. Các hành vi này trước hết nhằm thỏa mãn quyền, lợi ích chính đáng của chủ thể, sau đó sẽ là những đảm bảo tương ứng cho quyền của chủ thể khác và rộng ra là của cả xã hội. Tạo nên một môi trường xã hội với các thành viên có thói quen tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, tích cực.
- Hiệu quả áp dụng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền
Tiêu chí này đặt ra đối với các chủ thể GDPL là các cán bộ, công chức, người đại diện cho quyền lực nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật. GDPL nhằm hướng đến thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh của tất cả các chủ thể trong xã hội. Trong đó, việc thực hiện pháp luật của các chủ thể công quyền - hoạt động áp dụng pháp luật là một hoạt động đặc thù. Hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật có tác động lớn đến từng cá nhận và đến cả xã hội. Quá trình này rất phức tạp, đòi hỏi có sự chủ động, công tâm, kỹ năng của các chủ thể áp dụng. Do đó, chủ thể áp dụng trước hết cần phải có trình độ, nhận thức chuyên nghiệp về pháp luật, dần chuyển hóa nó thành hành vi trong quá trình ra quyết định áp dụng pháp luật của mình. Theo đó, mà hiệu quả hoạt động GDPL cũng chính là hiệu quả áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền là vì thế.
- Sự đồng thuận của dư luận xã hội
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tinh chất phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội hay của xã hội trước những vấn đề mang tính thời sự, liên quan đến lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.
Dư luận xã hội phản ánh thực tế các lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần trong đó có giáo dục pháp luật. Dư luận xã hội sẽ giúp phán xét, đánh giá các khía cạnh của GDPL, từ phương pháp, hình thức, mức độ, nội dung cho đến hiệu quả của GDPL. Dư luận xã hội mang tính chủ quan nhưng cũng khách quan. Dư luận xã hội về một trong các khía cạnh trên hoặc về hiệu quả của GDPL theo chiều hướng tốt, thì có cơ sở để đánh giá hiệu quả của GDPL và ngược lại.
- Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật, cơ chế thực hiện và bảo vệ pháp luật
GDPL là để cho pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành ý thức và hành vi hợp pháp của các chủ thể. Nhưng, cũng chính nhờ GDPL mà những thiếu sót, khiếm khuyết của pháp luật trong quá trình phổ biến, giải thích, vận dụng pháp luật trong thực tế được kiểm nghiệm. Cùng với sự vận động của các quan hệ xã hội, pháp luật lại được sửa đổi, bổ sung, tiếp tục tạo cơ chế hiệu quả cho hoạt động GDPL.
Đi liền với xây dựng pháp luật, là cơ chế vận hành và bảo vệ pháp luật. Cơ chế này chỉ có thể hoạt động hiệu quả khi được xã hội nhận thức về trách nhiệm, và có sự giám sát thích đáng quá trình thực thi pháp luật. Đi liền với đó, trong quá trình vận hành cơ chế, các chủ thể liên quan lại có những đóng góp tích cực vào quá trình hoàn thiện pháp luật và tổ chức hoạt động GDPL trong thực tiễn.
- Các yếu tố về nội dung, hình thức, phương pháp, chủ thể, điều kiện hỗ trợ cho công tác GDPL
Đây là những đảm bảo, điều kiện xã hội cho công tác GDPL, nhưng cũng là những yếu tố, tiêu chí để đánh giá hiệu quả xã hội của GDPL. Bởi không thể có hiệu quả GDPL nếu như các yếu tố về nội dung, hình thức, phương pháp, chủ thể, điều kiện hỗ trợ cho công tác GDPL không được đánh giá cao.
Về cơ bản, nội dung GDPL phải phù hợp với đối tượng giáo dục, thống nhất với các cấp độ giáo dục và phải cập nhật; chủ thể giáo dục phải đáp ứng mục tiêu và yêu cầu giáo dục, phải sử dụng hiệu quả các phương pháp GDPL; hình thức, phương pháp giáo dục phải tương thích nhau, phù hợp với đối tượng và mục tiêu GDPL; bên cạnh đó là các điều kiện hỗ trợ cho GDPL như cơ chế pháp lý, tổ chức, các kế hoạch GDPL cụ thể, các phương tiện truyền thanh, truyền hình, đưa tin, nguồn lực về tài chính... cũng cần có sự chuẩn bị bài bản, phù hợp.
6. Xã hội hóa giáo dục pháp luật
Thuộc một trong những khía cạnh của xã hội học GDPL, xã hội hóa GDPL được hiểu là việc tăng cường sự quan tâm, tham gia rộng rãi của các thành phần xã hội đối với hoạt động GDPLvề tất cả các mặt vật chất hoặc tinh thần, mà vốn trước đây, hoạt động này chỉ do một hoặc một số ít chủ thể nhất định thực hiện. Là chính sách huy động mọi nguồn lực của Nhân dân, của các tổ chức kinh tế - xã hội tham gia vào sự nghiệp GDPL, đầu tư vào hoạt động GDPLtrên cơ sở phù hợp với khả năng tài chính và trình độ chuyên môn nhằm xây dựng xã hội thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật.
Xã hội hóa GDPL đã được đề cập trực tiếp tại Điều 4 Luật Phổ biến, GDPLnăm 2012: "Xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật; huy động các nguồn lực xã hội đóng góp cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; Căn cứ tình hình kinh tế - xã hội của từng thời kỳ, Chính phủ quy định cụ thể chính sách hỗ trợ đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật".
Nhằm tăng cường hiệu quả xã hội hóa GDPL, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày 15/7/2013, phê duyệt Đề án: “Xã hội hóa công tác phổ biến, GDPLvà trợ giúp pháp lý giai đoạn 2013 - 2016”.
Ở khía cạnh GDPL, với quan điểm nhằmphát huy vai trò, trách nhiệm xã hội của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, đặc biệt là Hội Luật gia các cấp trong công tác GDPL; tăng cường, mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng trong xã hội, thu hút các tổ chức chính trị - xã hội, chính trị - xã hội - nghề nghiệp, xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp, cá nhân thực hiện xã hội hóa công tác GDPL; tăng cường sự phối hợp giữa các chủ thể này với các cơ quan nhà nước nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững của hoạt động phổ biến, GDPL, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật. Đề án hướng đến mục tiêu: cung cấp kịp thời, có chất lượng dịch vụ công về GDPL cho người dân trên cơ sở phát huy vai trò của luật gia và Hội Luật gia các cấp cũng như các tổ chức, cá nhân khác nhằm đáp ứng nhu cầu về quyền được thông tin của Nhân dân, góp phần tăng cường hiệu quả thực thi công vụ và ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước.
Thực tiễn thực hiện Đề án ở giai đoạn I, năm 2013 - 2014, đã cho thấy chủ trương, chính sách xã hội hóa công tác GDPL (bên cạnh trợ giúp pháp lý) của Đảng và Nhà nước là vấn đề có tính chiến lược và có ý nghĩa lâu dài. Nhận thức của các cấp Hội Luật gia và tổ chức về vai trò, ý nghĩa của việc xã hội hóa công tác GDPL đã được nâng lên, tuy nhiên vẫn chưa thật sự đầy đủ và sâu rộng. Ở góc độ lý luận, bước đầu đã có những nghiên cứu phục vụ cho việc kiến nghị, đề xuất các giải pháp triển khai thực hiện xã hội hóa công tác GDPL trong những năm tới. Trong thực tiễn, mô hình xã hội hóa GDPL cũng đã bước đầu được triển khai, tuy vậy, việc thực hiện mô hình chưa thống nhất, đồng đều và chưa được rút kinh nghiệm, điều chỉnh kịp thời nhằm triển khai nhân rộng. Công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ, hội viên Hội Luật gia làm công tác GDPL nhìn chung đã được chú trọng và thực hiện nghiêm túc, bài bản. Tuy nhiên, công tác xã hội hóa GDPL chưa thật sự được quan tâm, chưa huy động được nguồn nhân lực vốn dồi dào vào  quá  trình  thực  hiện  xã  hội  hóa  công  tác GDPL. Những tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân chủ quan, khách quan của những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện Đề án ở giai đoạn I cũng đã được chỉ rõ, nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thực hiện đề án trong giai đoạn II.
7. Một số biện pháp nâng cao chất hượng và hiệu quả xã hội của hoạt động giáo dục pháp luật
Bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, hạn chế lớn nhất là công tác GDPL vẫn còn mang tính hình thức, phong trào, do vậy mà chất lượng, hiệu quả xã hội chưa cao. Để khắc phục hạn chế này, cần tiến hành các biện pháp cơ bản như:
- Hoàn thiện pháp luật về GDPL theo hướng quy định cụ thể vấn đề trách nhiệm pháp lý trong công tác GDPL
Luật Phổ biến, GDPL năm 2012 cùng các văn bản hướng dẫn đã tạo cơ sở pháp lý cho công tác GDPL. Những khía cạnh quan trọng như nguyên tắc, hình thức, nội dung, chủ thể, chính sách GDPL đã được đề cập. Tuy nhiên, dễ nhận thấy, các văn bản điều chỉnh trực tiếp hoạt động GDPL hầu như không đề cập đến vấn đề trách nhiệm pháp lý trong quá trình các chủ thể tiến hành GDPL. Mà mới chỉ dừng lại ở việc quy định trách nhiệm theo nghĩa tích cực của toàn hệ thống chính trị, trong đó nòng cốt là Nhà nước, quy định nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong công tác GDPL liên quan đến phạm vi, lĩnh vực hoạt động cụ thể của các cơ quan, tổ chức đó. Bên cạnh đó, pháp luật cũng mới chỉ dừng ở việc quy định các hành vi bị cấm cũng như việc khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có đóng góp tích cực trong công tác phổ biến, GDPL. Những quy định này là cần thiết, tuy nhiên chưa thể đủ để các chủ thể có nghĩa vụ tự giác thực hiện hiệu quả hoạt động GDPL. Bởi, như một tất yếu, nếu chỉ quy định nghĩa vụ mà không quy định hậu quả bất lợi mà pháp luật dự kiến áp dụng đối với việc không đảm bảo nghĩa vụ hoặc có hành vi vi phạm nghĩa vụ, thì cũng có nghĩa là đã thiếu đi những đảm bảo của hiệu lực và hiệu quả pháp luật GDPL. Nghĩa vụ pháp lý cần phải được quy định cụ thể, trực tiếp, liên đới, thường xuyên và gắn với cá nhân trong quá trình thực hiện công tác GDPL, đi theo đó là một cơ chế xử lý vi phạm tương ứng, được luật hóa và tổ chức thực thi trong thực tế. Chỉ có như vậy, công tác GDPL mới có thể thực chất như mong muốn.
- Xây dựng cơ chế kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động GDPL
Đi liền với các quy định về trách nhiệm pháp lý, phải là một cơ chế kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động GDPL. Cơ chế kiểm tra, đánh giá này phải bao gồm các thiết chế được thành lập chuyên trách, theo cấp đơn vị hành chính, trực thuộc các cơ quan tư pháp, với cách thức hoạt động thường xuyên, kịp thời. Hoạt động kiểm tra, đánh giá chất lượng cần phải đặt ra với tất cả các hình thức, loại việc, chủ thể tiến hành GDPL. Quá trình kiểm tra, đánh giá phải trên cơ sở xây dựng kế hoạch kiểm tra, đánh giá chất lượng GDPL hàng năm. Theo đó, cũng cần phải xây dựng một bộ tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động GDPL với từng loại hình GDPL để làm căn cứ kiểm tra, đánh giá, đồng thời là cơ sở để góp phần xác định trách nhiệm pháp lý cá nhân đối với các chủ thể liên quan, nếu có vi phạm trong quá trình tiến hành công tác GDPL.
- Tăng cường kỹ năng, chuyên môn, đạo đức của chủ thể GDPL
Kết quả hoạt động GDPL phụ thuộc phần lớn vào năng lực chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm và thái độ của những người thực hiện GDPL. Bởi họ chính là cầu nối để đưa nội dung GDPL đến với các đối tượng GDPL. Pháp luật trở nên gần gũi, hữu ích hay khô cứng, xa lạ với người dân cũng là ở họ. Chính vì vậy, việc xây dựng đội ngũ những người GDPL giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có sự chuyên nghiệp, tận tụy, nhiệt tình với công việc, có phẩm chất đạo đức tốt là yếu tố quan trọng để hoạt động GDPL đảm bảo hiệu quả và chất lượng. Cần phải tiếp tục tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, đãi ngộ đội ngũ làm công tác GDPL. Cần có chính sách nhằm thu hút những sinh viên được đào tạo chính quy chuyên ngành luật, các cộng tác viên, các chuyên viên có tâm huyết, đồng thời “giữ chân” được những người có kinh nghiệm, có năng lực, hứng thú với công tác GDPL.
- GDPL theo hướng thay đổi nhận thức của Nhân dân đối với pháp luật.
Không ít người dân cho rằng, pháp luật gắn liền với mệnh lệnh mà mọi người cần phải tuân thủ, là hình phạt, trừng trị hoặc để giải quyết các tranh chấp. Người ta chỉ quan tâm, dính líu tới pháp luật khi bản thân họ phải rơi vào tình thế miễn cưỡng, lợi ích bị xâm hại, dính líu tới pháp luật như kiện cáo, bị phạt, bị cưỡng chế… Do đó, khi tuyên truyền, phổ biến GDPL cần giải thích, phân tích cho người dân hiểu pháp luật không chỉ bao gồm các quy định cưỡng chế, biện pháp giải quyết tranh chấp, mà còn là các quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khuyến khích sự giao dịch lành mạnh giữa các thành viên trong xã hội vì sự phát triển và trật tự xã hội. Pháp luật là một môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho con người giao dịch với nhau trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo cho các thành viên phụ thuộc và gắn bó với nhau một cách hợp lý, nhằm bảo đảm cao nhất nhân phẩm và các quyền cơ bản của con người[3]...
- Tăng cường xây dựng, triển khai các kế hoạch, chương trình, đề án GDPL cụ thể với từng hình thức, lĩnh vực pháp luật
Thời gian qua, Chính phủ đã phê duyệt một số Đề án liên quan đến các lĩnh vực hoặc loại hình hoặc đối tượng GDPL cụ thể, như: Đề án “Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, GDPL về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013 - 2016”, Đề án "Tăng cường phổ biến, GDPL cho cán bộ, Nhân dân vùng biên giới, hải đảo giai đoạn 2013 - 2016", Đề án "Tăng cường công tác phổ biến, GDPL trên Đài Truyền hình Việt Nam giai đoạn 2013 - 2016"... Trong các Đề án, đều xác định rõ quan điểm, mục tiêu, cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, nhân lực, nội dung, nhiệm vụ cũng như quy định về cách thức tổ chức thực hiện, thời gian thực hiện, việc báo cáo kiểm tra tiến độ, hiệu quả thực hiện đề án. Các Đề án đều đã hoàn thành giai đoạn I và đang tiến hành giai đoạn II. Thực tiễn triển khai các đề án đã cho thấy, dù còn những bất cập nhất định, nhưng đây là một hướng đi phù hợp với công tác GDPL, hạn chế được phần nào tính hình thức của GDPL. Bởi các Đề án đã chỉ rõ và phát huy được trách nhiệm của các cơ quan chủ trì, đã xác định rõ và khuôn gọn hoặc là nội dung, hoặc là phạm vi, đối tượng GDPL trong quá trình thực hiện công tác GDPL. Vấn đề là, khi xây dựng Đề án, phải lựa chọn được những lĩnh vực pháp luật cấp bách, thiết yếu đối với người dân, lựa chọn được những đối tượng cũng như loại hình GDPL phù hợp. Quá trình tổ chức thực hiện Đề án cần tăng cường công tác báo cáo, tổng kết, rút kinh nghiệm giữa các giai đoạn, để có những sửa đổi, điều chỉnh kịp thời, hợp lý./.

 


 
[1] Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (chủ biên), Xã hội học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., tr.267-269
[2] Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng Xã hội học, Nxb. Công an nhân dân, H., tr. 55
[3] Xem thêm Nguyễn Tất Viễn, Một số biện pháp tăng cường công tác phổ biến GDPL trong tình hình mới,Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp.
 
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 18(322)-tháng 9/2016)


Thống kê truy cập

32783669

Tổng truy cập