Việt Nam với Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc và cơ chế rà soát định kỳ phổ quát

01/08/2015

TS. HOÀNG VĂN NGHĨA

Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị, Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

Với sự thành lập Hội đồng Nhân quyền (HĐNQ) của Liên hợp quốc vào năm 2006, hệ thống luật quốc tế về quyền con người đã bước sang một nấc thang phát triển mới. Là một cơ quan quan trọng thứ hai sau Hội đồng Bảo an, HĐNQ đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên phạm vi toàn cầu. Việt Nam là một thành viên tích cực của hầu hết các văn kiện cơ bản về quyền con người của Liên hợp quốc và đã được bầu với số phiếu cao nhất (184/192) trở thành thành viên của HĐNQ (nhiệm kỳ 2014-2016), điều này mang lại những cơ hội to lớn cho Việt Nam góp phần phát triển quyền con người ở trong nước cũng như trên thế giới, nhưng cũng đòi hỏi những nỗ lực hơn nữa trong việc không ngừng cải thiện về lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm tôn trọng và thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền con người. 
Untitled_215.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Lịch sử hình thành Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc
HĐNQ Liên hợp quốc (United Nations Human Rights Council) là một cơ quan của Liên hợp quốc ra đời ngày 13/5/2006, sau khi Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bỏ phiếu thông qua Nghị quyết (GA 60/251) chính thức thành lập HĐNQ, với 170 nước bỏ phiếu thuận, 4 nước bỏ phiếu chống (Mỹ, I-xra-en, Mác-xan, Pa-lau), 3 nước bỏ phiếu trắng (Bê-la-rút, I-ran, Vê-nê-zu-ê-la) và 14 nước không tham gia bỏ phiếu.
Tuy nhiên, HĐNQ của Liên hợp quốc không phải là một cơ quan hoàn toàn mới chịu trách nhiệm về việc thúc đẩy và tôn trọng nhân quyền trên phạm vi toàn cầu của Liên hợp quốc, mà nó là sự kế thừa và tiếp nối của Uỷ ban Nhân quyền (UBNQ) của Liên hợp quốc (United Nations Commission on Human Rights) - một cơ quan được thành lập dựa trên Hiến chương của Liên hợp quốc (còn gọi là cơ quan theo Hiến chương) từ năm 1947, Ủy ban này trực thuộc Hội đồng Kinh tế - Xã hội (UN Economic and Social Commission - ECOSOC). Trong suốt 60 năm tồn tại và phát triển, trước khi được thay thế và đổi tên thành HĐNQ Liên hợp quốc, UBNQ đã đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy tôn trọng và thực thi quyền con người thông qua các hoạt động giám sát việc thực thi các chuẩn mực nhân quyền của quốc tế của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, cũng như hoạt động giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về luật nhân quyền quốc tế trên phạm vi toàn cầu.
Với sự ra đời của HĐNQ, UBNQ đã kết thúc quá trình hình thành và hoạt động vào tháng 3/2006 bằng một phiên họp cuối cùng và thông qua Nghị quyết số 60/251 của Đại hội đồng Liên hợp quốc
Theo Nghị quyết số 60/251 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, các chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của UBNQ sẽ được chuyển sang HĐNQ mới và HĐNQ được yêu cầu họp để xem xét lại, tăng cường và điều chỉnh nhiệm vụ, cơ chế bộ máy của UBNQ, trong đó tiếp tục duy trì hệ thống các thủ tục đặc biệt, chuyên gia tư vấn và thủ tục khiếu nại. Nghị quyết quyết định việc điều chỉnh này sẽ kết thúc một năm sau khóa họp đầu tiên của HĐNQ.
Khóa họp đầu tiên của HĐNQ, bắt đầu từ ngày 19/6/2007 đã triển khai công việc này trên cơ sở thành lập 6 Nhóm làm việc để thảo luận về các vấn đề liên quan đến xây dựng thể chế của HĐNQ, bao gồm các vấn đề: cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR); thủ tục đặc biệt; chuyên gia tư vấn; thủ tục khiếu nại; chương trình nghị sự và chương trình làm việc; phương pháp làm việc và các quy định thủ tục. 
Sau một năm thương lượng và thảo luận các văn bản liên quan đến xây dựng thể chế của HĐNQ gồm các nội dung nêu trên, ngày 18/6/2007, tại khóa họp lần thứ 5, HĐNQ đã thông qua bằng đồng thuận toàn bộ văn bản về xây dựng thể chế của HĐNQ (A/HRC/5/L.2) và thông qua bỏ phiếu Bộ luật ứng xử cho những người thực hiện chức năng thủ tục đặc biệt của HĐNQ (A/HRC/5/L.3/Rev.1), với 46 nước bỏ phiếu thuận và 1 nước bỏ phiếu chống (Canada). 
2. Cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng Nhân quyền
Cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của HĐNQ được quy định tại hai Nghị quyết của Liên hợp quốc là Nghị quyết GA 60/251 và Nghị quyết A/HRC/5/L.2.
Quy chế của HĐNQ
HĐNQ có quy chế là cơ quan liên chính phủ trực thuộc Đại hội đồng Liên hợp quốc (còn gọi là cơ quan thành lập theo Hiến chương của Liên hợp quốc (UN Charter-based organ), quy chế có thể được xem xét lại sau 5 năm. Trụ sở của HĐNQ đặt tại Geneva. HĐNQ hoạt động theo phiên họp được tổ chức ít nhất 3 lần trong một năm và mỗi phiên họp kéo dài ít nhất là 10 tuần. Bên cạnh đó có các phiên họp đặc biệt theo yêu cầu và ít nhất 1/3 số quốc gia thành viên HĐNQ tán thành. Phiên họp đặc biệt không theo định kỳ nhằm xem xét và giải quyết những vấn đề cấp thiết có liên quan đến chức năng và nhiệm vụ của HĐNQ.
 Cơ cấu của HĐNQ
Là một cơ quan được thành lập theo Hiến chương của Liên hợp quốc và là cơ quan liên chính phủ, thành viên của HĐNQ trước hết phải là các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc.
Theo Điều 7 Nghị quyết số 60/251, HĐNQ gồm 47 quốc gia thành viên (so với lúc là UBNQ, giảm đi 6 quốc gia thành viên, trước đây có 53 thành viên), phân bổ cân đối dựa trên khu vực địa lý. Sự phân bổ này được chia thành các nhóm quốc gia, bao gồm nhóm các quốc gia châu Á có 13 đại diện (hay ghế); nhóm các quốc gia châu Phi: 13 đại diện; nhóm các quốc gia Đông Âu: 6 đại diện; nhóm các quốc gia Mỹ Latinh và Caribe: 8 đại diện; nhóm các quốc gia Tây Âu và các quốc gia khác: 7 đại diện. Các thành viên này được bầu trực tiếp bằng cách bỏ phiếu kín và theo tỷ lệ đa số bởi các thành viên của Liên hợp quốc.
Nhiệm kỳ của các thành viên là 3 năm, nhằm tạo điều kiện cho sự đại diện rộng lớn của nhiều quốc gia, Nghị quyết quy định sẽ không có bất cứ quốc gia nào được tái cử nếu đã qua hai nhiệm kỳ liên tục (Điều 7).
Tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc đều có quyền ứng cử vào HĐNQ. Muốn trở thành thành viên của HĐNQ các quốc gia thành viên trước hết phải đáp ứng được những chuẩn mực về nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu bằng cơ chế phiếu kín với tỷ lệ đa số. Tư cách thành viên của HĐNQ sẽ bị tạm đình chỉ đối với một quốc gia thành viên nào đó nếu HĐNQ phát hiện ra sự vi phạm nhân quyền nghiêm trọng và có hệ thống và thông qua việc bỏ phiếu bất tín nhiệm với đa số 2/3 số thành viên tán đồng (Điều 8 Nghị quyết 60/251).
Bổ sung cho thiết chế của HĐNQ còn có: 1) Ủy ban Tư vấn được coi là “đầu não tham mưu” của HĐNQ với chức năng là chuyên sâu và tư vấn về những vấn đề nhân quyền dựa trên chủ đề; 2) Cơ chế Thủ tục khiếu nại (Complaints Procedure) cho phép các cá nhân và tổ chức đệ đơn kiện về những vụ việc vi phạm nhân quyền lên HĐNQ. Theo cơ chế này, HĐNQ cũng sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với cơ chế thủ tục đặc biệt của Liên hợp quốc  (UN Special Precudures) được thành lập bởi UBNQ trước đó.
Chức năng của HĐNQ
Chức năng của HĐNQ được tóm lược tại Điều 2 và 3 Nghị quyết số 60/251. Theo đó, HĐNQ sẽ có chức năng thúc đẩy sự tôn trọng toàn cầu đối với việc bảo đảm các quyền con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không dựa trên bất cứ sự phân biệt nào và trên cơ sở bình đẳng, công bằng; đồng thời HĐNQ sẽ xem xét những tình trạng vi phạm quyền con người, bao gồm những vi phạm mang tính hệ thống và toàn diện, cũng như đưa ra đề xuất để giải quyết chúng. HĐNQ cũng có chức năng thúc đẩy sự điều phối hiệu quả và đưa cách tiếp cận nhân quyền vào trong toàn bộ hệ thống Liên hợp quốc.
Nhiệm vụ của HĐNQ
Nhiệm vụ của HĐNQ được quy định cụ thể tại Điều 6 Nghị quyết số 60/251, bao gồm những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Thứ nhất, thúc đẩy việc giáo dục và đào tạo nhân quyền cũng như cung cấp các dịch vụ tham vấn, hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực, theo yêu cầu tham vấn và với sự đồng thuận của các quốc gia thành viên liên quan;
Thứ hai, hoạt động như là một diễn đàn đối thoại dựa trên các chủ đề về tất cả các quyền con người;
Thứ ba, đề xuất các kiến nghị lên Đại hội đồng Liên hợp quốc cho việc phát triển không ngừng luật quốc tế về quyền con người;
Thứ tư, thúc đẩy việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nhân quyền do các quốc gia cam kết và đánh giá những mục tiêu và cam kết liên quan đến việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người khởi nguồn từ các hội nghị và Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc;
Thứ năm, thực thi việc rà soát định kỳ phổ quát, dựa trên thông tin đáng tin cậy và khách quan, về việc thực hiện các nghĩa vụ và cam kết nhân quyền của mỗi quốc gia thành viên Liên hợp quốc, đảm bảo rằng tất cả các quốc gia đều được xem xét trên cơ sở tôn trọng và bình đẳng.
Thứ sáu, đóng góp, thông qua đối thoại và hợp tác, vào việc ngăn ngừa những sự vi phạm nhân quyền và ứng phó kịp thời đối với những tình trạng khẩn cấp về quyền con người;
Thứ bảy, đảm bảo vai trò và trách nhiệm của UBNQ liên quan đến công tác của Văn phòng Cao uỷ Liên hợp quốc về nhân quyền, được xác định bởi Đại hội đồng Liên hợp quốc bằng Nghị quyết số 48/141 (20/12/1993);
Thứ tám, hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực nhân quyền với các chính phủ, các tổ chức khu vực, các cơ quan nhân quyền quốc gia và xã hội dân sự;
Thứ chín, đưa ra những đề xuất về việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền;
Thứ mười, đệ trình một bản báo cáo hàng năm cho Đại hội đồng Liên hợp quốc;
Cơ chế và cách thức hoạt động của HĐNQ
Cơ chế hoạt động của HĐNQ dựa trên các nguyên tắc bất di bất dịch đó là phổ quát (universality), không thiên vị (impartiality), khách quan (objectivity) và không lựa chọn (non-selectivity), hợp tác và đối thoại quốc tế xây dựng (constructive international dialogue and cooperation), với quan điểm là nhằm tăng cường việc thúc đẩy và bảo đảm tất cả các quyền con người, bao gồm quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá và quyền phát triển.
3. Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát
Chỉ ngay tròn một năm sau khi thành lập, tháng 6/2007, HĐNQ đã thông qua “Văn kiện về Xây dựng thiết chế” (còn gọi là Nghị quyết 5.1 của HĐNQ), theo đó thành lập cơ chế “rà soát định kỳ phổ quát”[1] (Universal Periodic Review) nhằm đánh giá việc thực hiện nhân quyền của 192 quốc gia. Đây là cơ chế bắt buộc đòi hỏi không chỉ những quốc gia là thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người, mà là tất cả các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc, phải có nghĩa vụ đệ trình báo cáo kiểm điểm định kỳ về việc thực thi các cam kết quốc tế về quyền con người. Cơ chế này nhằm tăng cường giám sát việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người ở từng quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Đồng thời qua đó giúp tham vấn cho Đại hội đồng Liên hợp quốc nói chung, cũng như các cơ quan chuyên trách và chức năng của Liên hợp quốc nói riêng, trong việc đưa ra những chính sách và chương trình phù hợp liên quan đến viện trợ, hợp tác phát triển dưới lăng kính quyền con người đối với các quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Việc hoạt động hiệu quả của cơ chế này sẽ giúp HĐNQ nói riêng và Liên hợp quốc nói chung hoàn thành được sứ mạng cao cả của mình, đó là góp phần vào tạo lập hoà bình, tăng cường tình hữu nghị, hợp tác và phát triển, thúc đẩy việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người trên phạm vi toàn thế giới.
Việc đánh giá này được tiến hành dựa trên nền tảng của Hiến chương Liên hợp quốc,  Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền, các văn kiện về nhân quyền mà quốc gia được xem xét là thành viên, những cam kết tự nguyện và ràng buộc bởi các quốc gia thành viên, bao gồm những cam kết được thực thi khi đại diện là ứng viên cho việc bầu cử là thành viên của HĐNQ (được quy định tại Nghị quyết 5.1 của HĐNQ).
Như vậy, với cơ chế này, HĐNQ đóng vai trò quan trọng trong việc thay mặt Liên hợp quốc giám sát thực thi nhân quyền trên phạm vi toàn thế giới bằng việc thực thi nhiệm vụ kiểm điểm định kỳ việc thực hiện nghĩa vụ và cam kết về nhân quyền của tất cả các nước, dựa trên các thông tin khách quan và tin cậy, thông qua một cơ chế kiểm điểm định kỳ 4 năm một lần trên cơ sở hợp tác và đối thoại với sự tham gia của quốc gia liên quan.
UPR là một cơ chế duy nhất và mới của HĐNQ nhằm cải thiện tình hình nhân quyền trên thực tế của toàn bộ 193 quốc gia thành viên của Liên hợp quốc (năm 2011, Liên hợp quốc kết nạp thêm thành viên mới là Nam Xu-đăng).
Theo cơ chế này, tất cả các quốc gia của Liên hợp quốc đều phải đưa ra trước HĐNQ để đánh giá về việc thực hiện quyền con người theo chu kỳ 4 năm (cho kỳ thứ nhất) và 4,5 năm một lần (kể từ chu kỳ thứ hai trở đi). Trong chu kỳ thứ nhất, bắt đầu từ năm 2008, có 48 quốc gia thành viên được xem xét, đánh giá mỗi năm. Trong chu kỳ thứ hai, bắt đầu từ tháng 5/2012 tại Phiên họp lần thứ 13 của Nhóm làm việc của UPR có 42 quốc gia sẽ được đánh giá mỗi năm, được tiến hành thành ba phiên họp của Nhóm làm việc mà mỗi phiên sẽ có 14 quốc gia được đưa ra xem xét, đánh giá. Các cuộc rà soát, đánh giá diễn ra trong các phiên họp của Nhóm làm việc UPR được tổ chức 3 lần mỗi năm. Ba phiên họp này thường được tổ chức theo định kỳ vào tháng 1-2, tháng 5-6, tháng 10-11. Số lượng các quốc gia được đưa ra rà soát, đánh giá ở chu kỳ thứ nhất là 16 và chu kỳ thứ hai là 14 cho mỗi phiên họp.
Các cuộc rà soát/đánh giá được tiến hành bởi Nhóm làm việc UPR, bao gồm 47 thành viên của HĐNQ. Tuy nhiên, bất kể quốc gia thành viên nào của Liên hợp quốc đều có quyền tham gia vào cuộc thảo luận/đối thoại cùng với các quốc gia được rà soát. Mỗi cuộc rà soát, đánh giá sẽ được hỗ trợ bởi các nhóm gồm 3 quốc gia, được gọi là “troika” (nhóm 3 nước), đóng vai trò là các báo cáo viên (rapporteurs).
Kết quả của mỗi đợt rà soát sẽ được phản ánh trong báo cáo kết quả liệt kê những khuyến nghị mà quốc gia được đánh giá sẽ cần phải thực hiện cho đến trước chu kỳ đánh giá kế tiếp.
Chu trình đánh giá đầy đủ của UPR bao gồm 3 giai đoạn chính, đó là:
1) Đánh giá tình hình (thực hiện) nhân quyền của quốc gia được đưa ra xem xét (State under Review-SuR);
2) Việc thực hiện giữa hai lần đánh giá/rà soát (4,5 năm) của quốc gia được đưa ra xem xét đối với những khuyến nghị nhận được và những cam kết tự nguyện được đưa ra;
3) Báo cáo tại lần đánh giá/rà soát kế tiếp về việc thực hiện những khuyến nghị và cam kết này về tình trạng nhân quyền ở quốc gia kể từ khi đánh giá.
Cơ sở để đánh giá, rà soát dựa trên: 1) thông tin do quốc gia thành viên cung cấp, thường được thể hiện trong “báo cáo quốc gia”; 2) thông tin qua báo cáo của các chuyên gia và nhóm/tổ chức nhân quyền, được biết đến như là Các thủ tục đặc biệt, các cơ quan điều ước nhân quyền, và các tổ chức/cơ quan khác của Liên hợp quốc; 3) thông tin do các chủ thể (stakeholders) khác bao gồm các cơ quan nhân quyền quốc gia và các tổ chức phi chính phủ.
 Cách thức đánh giá. Các cuộc rà soát/đánh giá được thực hiện thông qua thảo luận tương tác giữa quốc gia được rà soát và các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc khác tại phiên họp của Nhóm làm việc UPR. Trong quá trình thảo luận này, bất cứ quốc gia thành viên nào của Liên hợp quốc đều có thể đặt câu hỏi, bình luận và/hoặc đưa ra các khuyến nghị cho các quốc gia được rà soát/đánh giá. Ba nước tham gia với tư cách là báo cáo viên có thể nhóm các vấn đề và chia sẻ với quốc gia được rà soát để đảm bảo rằng cuộc đối thoại tương tác diễn ra suôn sẻ và đúng cách. Quá trình đánh giá diễn ra trong 3 giờ đồng hồ cho mỗi nước được rà soát (đối với chu kỳ thứ nhất), và được mở rộng lên tới 3,5 giờ (tại chu kỳ thứ hai).
Các tổ chức phi chính phủ (NGOs)có quyền tham gia vào quá trình rà soát. Họ có thể đệ trình báo cáo trong quá trình rà soát.
Nội dung đánh giá.UPR sẽ đánh giá mức độ, phạm vi tôn trọng các quyền con người của các quốc gia được nêu trong 5 văn kiện sau đây: 1) Hiến chương Liên hợp quốc; 2) Tuyên ngôn Phổ quát về quyền con người; 3) các văn kiện nhân quyền mà quốc gia đó là thành viên (các điều ước nhân quyền quốc tế do quốc gia liên quan phê chuẩn); 4) các cam kết và lời hứa tự nguyện của quốc gia ấy (chẳng hạn, các chính sách hay chương trình nhân quyền được thực thi); 5) luật nhân đạo quốc tế liên quan.
Kết quả của cuộc rà soát.Sau khi Nhóm làm việc tiến hành rà soát, đánh giá, một báo cáo sẽ được nhóm troika, với sự tham gia của quốc gia được rà soát và sự trợ giúp của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (OHCHR) đưa ra. Báo cáo này được xem là “báo cáo kết quả”, cung cấp một bản tóm tắt về cuộc thảo luận thực tế. Nó bao gồm các câu hỏi chất vấn, bình luận, khuyến nghị của các quốc gia gửi tới quốc gia được rà soát, cũng như những ý kiến phản hồi của quốc gia được rà soát.
Thông qua quá trình rà soát.Trong phiên họp của Nhóm làm việc, một nửa giờ sẽ được bố trí cho việc thông qua “các báo cáo kết quả” đối với các quốc gia được rà soát. Điều này được tiến hành không muộn hơn 48 giờ sau cuộc rà soát quốc gia đó. Quốc gia được rà soát có cơ hội đưa ra ý kiến về những khuyến nghị đối với việc lựa chọn là chấp nhận hay ghi nhận chúng. Các khuyến nghị được chấp nhận hay ghi nhận đều được đưa vào trong báo cáo kết quả. Sau khi báo cáo được thông qua, việc sửa đổi có thể được tiến hành thông qua báo cáo do các quốc gia đưa ra tuyên bố trong phạm vi hai tuần sau đó. Báo cáo sau đó được thông qua tại phiên họp toàn thể của HĐNQ.
Các bước tiếp theo sau rà soát.Quốc gia thành viên có trách nhiệm chính yếu trong việc thực hiện các khuyến nghị được nêu tại báo cáo cuối cùng. Quá trình UPR đảm bảo rằng, tất cả các quốc gia đều chịu trách nhiệm giải trình về quá trình thực hiện hay không thực hiện những khuyến nghị này. Tại chu kỳ thứ hai, quốc gia được rà soát có trách nhiệm cung cấp thông tin về những việc đã và đang được tiến hành nhằm thực hiện các khuyến nghị này được đưa ra tại chu kỳ rà soát lần thứ nhất cũng như về bất cứ những sự tiến bộ nào trong lĩnh vực nhân quyền. Cộng đồng quốc tế sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện các khuyến nghị và kết luận liên quan đến hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực, trong việc tư vấn cho quốc gia hữu quan. Khi cần thiết, HĐNQ sẽ giải quyết các vụ việc mà ở đó các quốc gia không hợp tác.  
Thể thức(modalities) mới cho chu kỳ thứ hai. Tiếp theo việc đánh giá về công việc và chức năng của HĐNQ và việc thông qua Nghị quyết A/HRC/RES/16/21 vào tháng 3/2011 cũng như Quyết định A/HRC/DEC/17/119 vào tháng 6/2011, thể thức đánh giá của chu kỳ thứ hai có những sự thay đổi ít nhiều, đó là: 1) chu kỳ đánh giá: 4,5 năm; 2) số lượng phiên họp cho mỗi chu kỳ: 14; 3) thu hẹp số lượng quốc gia được đánh giá tại mỗi phiên họp (session): 14 quốc gia; 4) thời gian của mỗi phiên họp đánh giá cho mỗi quốc gia tăng lên (từ 3 giờ lên 3,5 giờ); 5) thay đổi quy định về thời lượng trình bày báo cáo, thời lượng góp ý kiến/chất vấn: quốc gia được đánh giá trình bày 70 phút, các quốc gia khác tham gia, góp ý: 140 phút.
Những nội dung cơ bản khác và nguyên tắc chung vẫn được giữ nguyên so với thể thức đánh giá của chu kỳ thứ nhất.
Một số thông tin cơ bản về 2 chu kỳ rà soát:
- Tổng các kiến nghị được đưa ra tại cả hai chu kỳ I (2008-2012) và Chu kỳ II (2012-2016) của UPR mà các quốc gia đưa ra tại các phiên rà soát là 30,256 khuyến nghị (tại phiên họp lần thứ nhất cho đến phiên họp lần thứ 16 vừa qua); trong đó có tới 1/3 (10,141) khuyến nghị thuộc cấp độ 5 (hành động cụ thể) được đưa ra. Có tới 31 quốc gia đã không đưa ra bất cứ khuyến nghị nào.
- 5 quốc gia được rà soát, đánh giá nhiều nhất (nhận khuyến nghị, bình luận nhiều nhất) đó là: 1) Cu Ba (534 lần); 2) Nga (365); 3; Uzbekistan (346); 4) Bangladesh (332); 5. Canada (330).
- 5 quốc gia đưa ra khuyến nghị nhiều nhất: 1) Canada (1054 khuyến nghị cho 188 quốc gia); 2) Tây Ban Nha (982); 3) Pháp (958); 4) Na Uy (919); 5) Mê-xi-cô (813).
- 5 vấn đề được đề cập/quan tâm nhiều nhất đó là: 1) các văn kiện quốc tế; 2) quyền phụ nữ (5.308); 3) quyền trẻ em (5024); 4) tra tấn và đối xử tàn tệ, phi nhân tính và hạ nhục khác (2402); 5) công lý (2222).
- 5 Cấp độ khuyến nghị:1) hành động tối thiểu; 2) hành động tiếp theo; 3) hành động cân nhắc; 4) hành động tổng quát; 5) hành động cụ thể.
4. Việt Nam với Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát
Với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc từ năm 1977, Việt Nam đã tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển của Tổ chức Liên hợp quốc nói chung, cũng như các cơ quan trực thuộc, cơ quan chuyên môn và chức năng của Liên hợp quốc, bao gồm UBNQ (trước đây) thuộc Hội đồng Kinh tế - Xã hội. Việt Nam đã tham gia hầu hết các văn kiện quyền con người cơ bản, bao gồm các công ước quốc tế và nghị định thư liên quan về quyền con người. Việt Nam cũng đã nỗ lực hết mình trong việc thực thi các cam kết và nghĩa vụ quốc tế và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc hiện thực hoá các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trong hệ thống chính sách, pháp luật và thực tiễn. Những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm các quyền về dân sự - chính trị (như quyền sống, quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia vào đời sống chính trị - xã hội,..) và các quyền kinh tế - xã hội và văn hoá (như quyền có lương thực, có nhà ở, có việc làm, quyền được giáo dục,..), đặc biệt kể từ khi đổi mới đến nay, đã thể hiện rõ quyết tâm chính trị cao của Nhà nước Việt Nam trong việc hiện thực hoá các quyền con người cũng như sự hợp tác chặt chẽ với cộng đồng quốc tế nói chung và các cơ quan, tổ chức chuyên môn và chức năng về quyền con người của Liên hợp quốc nói riêng, trong đó có HĐNQ.
Việt Nam tham gia tích cực và đầy tính xây dựng vào cả hai chu kỳ đánh giá của cơ chế UPR.
Năm 2013, tại phiên họp khóa 68 của Đại hội đồng Liên hợp quốc vào ngày 12/11/2013, Việt Nam đã được bầu là thành viên mới của HĐNQ, với số phiếu đạt tỷ lệ rất cao (184 phiếu thuận trên tổng số 192 phiếu, cao nhất trong số 14 nước thành viên mới) cho nhiệm kỳ 2014-2016. Với tư cách là thành viên của HĐNQ, Việt Nam, một mặt, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền con người, không ngừng thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong phạm vi thẩm quyền tài phán của mình mà còn trong các định chế khu vực và quốc tế, cũng như đóng góp tích cực và ý nghĩa vào quá trình thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên phạm vi toàn cầu.
Sở dĩ Việt Nam được bầu vào HĐNQ với số phiếu đạt tỷ lệ cao nhất là vì những thành tựu to lớn trên lĩnh vực bảo đảm quyền con người trong suốt những thập niên vừa qua, đặc biệt trên lĩnh vực bảo đảm các quyền dân sự - chính trị, kinh tế - xã hội và văn hóa. Cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao việc bảo đảm các quyền con người gắn với việc đạt được các mục tiêu thiên niên kỷ của Việt Nam. Trong đó, những thành tựu về xóa đói, giảm nghèo gắn với bảo đảm quyền được thoát khỏi đói nghèo, quyền phát triển; thành tựu về chăm sóc sức khỏe, về ngăn chặn và phòng ngừa HIV/AIDS,... với bảo đảm quyền về sức khỏe và quyền của các nhóm dễ bị tổn thương (như quyền phụ nữ, quyền trẻ em, quyền của người khuyết tật, quyền của người sống chung với HIV/AIDS,..);…
Trong việc thực hiện quyền con người theo UPR, cả hai chu kỳ (1 và 2), Việt Nam đã bảo vệ thành công báo cáo của mình, đồng thời tiếp thu các ý kiến đóng góp xây dựng của các quốc gia khác, cũng như tích cực đóng góp ý kiến cho các quốc gia khác về tình hình thực hiện quyền con người tại chu kỳ này. Chẳng hạn, tại phiên họp vào tháng 5/2009 của chu kỳ 1 (2008-2012), Việt Nam đã nhận được 123 khuyến nghị từ 60 quốc gia và đã chấp nhận 96 khuyến nghị, trong đó có tới 36 khuyến nghị liên quan trực tiếp đến cấp độ cao nhất về khuyến nghị (cấp độ 5) về việc cần có hành động cụ thể để cải thiện việc tôn trọng và bảo vệ các quyền con người. Đồng thời, Việt Nam cũng đã đưa ra 84 khuyến nghị cho 38 quốc gia. Những vấn đề chính mà Việt Nam quan tâm kiến nghị, đề xuất đó là nghèo đói, phát triển và quyền phụ nữ.
Tại Phiên họp lần thứ 18 của HĐNQ thuộc chu kỳ II (2012-2016) vào ngày 5/2/2014, Việt Nam đã bảo vệ báo cáo thực hiện quyền con người theo UPR và nhận được 227 khuyến nghị từ 106 quốc gia tham gia đối thoại. Việt Nam cũng đang xem xét và cân nhắc tính hợp lý và khả thi của các khuyến nghị để đưa ra ý kiến đối với các khuyến nghị này. Tuy nhiên, phần lớn các ý kiến này đều mang tính xây dựng. Rất nhiều các khuyến nghị mà các quốc gia đưa ra cho Việt Nam liên quan trực tiếp đến việc đề nghị Việt Nam hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về quyền con người; tăng cường các cơ chế thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người và đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức về quyền con người cho các chủ thể nghĩa vụ thực hiện quyền (các cán bộ, công chức, viên chức) cũng như chủ thể quyền (người dân nói chung). Những vấn đề mà Việt Nam đưa ra khuyến nghị nhiều nhất đó là: quyền phụ nữ, quyền trẻ em, phát triển; và 8 trong số các khuyến nghị này thuộc cấp độ hành động cụ thể (cấp độ 5).
UPR có tác động tích cực đối với những tiến bộ trong thực hiện quyền con người trên phạm vi toàn thế giới. Việt Nam đã và đang không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, xây dựng và đổi mới thể chế, thiết chế và cơ chế bảo đảm quyền con người cũng như thông qua nhiều chương trình quốc gia liên quan đến quyền con người. Thành tựu của gần 30 năm đổi mới trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chính trị - kinh tế, văn hóa, xã hội, đã và đang góp phần quan trọng vào việc không ngừng cải thiện mức độ và thực tiễn bảo đảm các quyền con người trên lĩnh vực chính trị - dân sự, kinh tế - xã hội và văn hóa cho tất cả mọi cá nhân và nhóm xã hội.
Để thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế của mình, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong việc không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và thực tiễn đảm bảo quyền con người. Là thành viên của HĐNQ Liên hợp quốc, Việt Nam sẽ tận dụng và phát huy vai trò của mình trong cơ chế quốc tế quan trọng này nhằm góp phần vào việc thực hiện hiệu quả quyền con người trong thực tiễn. Đồng thời, cũng đòi hỏi trách nhiệm và nghĩa vụ của Việt Nam lớn hơn đối với việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở phạm vi trong nước, khu vực và trên thế giới. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và kiện toàn các cơ chế, thể chế bảo đảm và thực hiện quyền con người có vai trò đặc biệt quan trọng hiện nay. Cùng với việc không ngừng hoàn thiện chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện, giám sát thực hiện, quyền con người, cần xây dựng các cơ chế của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội, cũng như cơ quan độc lập về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Trước hết, cần sắp xếp và tổ chức các cơ quan của Quốc hội trong việc giám sát tối cao đối với việc thực hiện quyền con người, bao gồm việc nghiên cứu kiện toàn và nâng Ban Dân nguyện trở thành Ủy ban Dân nguyện. Hiến pháp 2013 cũng để ngỏ cho việc xây dựng và thành lập cơ chế bảo hiến. Việc thành lập một cơ quan bảo hiến, chẳng hạn như Hội đồng Hiến pháp, và UBNQ quốc gia có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam hiện nay./.
 

*TS. Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
[1] Trước đây, thuật ngữ này được sử dụng trong ngôn ngữ chính thức của Bộ Ngoại giao Việt Nam và trong giới học thuật Việt Nam là “Cơ chế kiểm điểm định kỳ toàn cầu”, mặc dù tiếng Anh vẫn là “Universal Periodic Review” (UPR).

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 15(295), tháng 8/2015)