Vấn đề quyền về tình dục trên thế giới và ở Việt Nam

01/02/2017

PGS,TS. VŨ CÔNG GIAO

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

ThS. NGUYỄN MINH TÂM

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tóm tắt: Bài viết phân tích những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn liên quan đến quyền về tình dục trên thế giới và ở Việt Nam. Theo các tác giả, quyền về tình dục là một quyền con người, nằm trong nội hàm của quyền về đời tư của cá nhân, được bảo vệ trong nhiều công ước quốc tế về nhân quyền. Việc bảo đảm quyền này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với một số nhóm xã hội như người khuyết tật, LGBT…Các tác giả cũng cho rằng, khuôn khổ pháp luật về quyền về tình dục ở Việt Nam hiện nay còn sơ sài, chưa cụ thể, vì thế cần được nghiên cứu củng cố để bảo đảm và cải thiện quyền hưởng thụ tình dục chính đáng của người dân, đặc biệt là một số nhóm xã hội đang gặp những khó khăn nhất định về vấn đề này như người khuyết tật, người độc thân, người già, người sống chung với HIV, người lao động nhập cư từ nông thôn…
Từ khoá: Quyền tình dục, quyền con người, Việt Nam  
Abstract: This article provides analysis of theories, legal system and practices related to the sexual right in the world and in Vietnam. According to the authors, sexual right is the one of the human rights belonging to the contents of the privacy rights protected by various international conventions on human rights. The guarantee of this right is particularly important for a number of social groups such as people with disabilities, LGBT ... Under the authors' arguments, the legal framework on the sexual right in Vietnam is still vague and limited, which needs to be strengthened in order to ensure the sexual right and improve the legitimate sexual enjoyment of the people, especially such social groups facing difficulties in this regard such as the people with disabilities, the single, the elderly, the persons with HIV, the migrant workers from rural areas ...
Key words: Sexual Right, Human Rights, Vietnam
Untitled_433.jpg
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Nhận thức quyền về tình dục
Quyền về tình dục (sexual rights/rights to sexuality) là khái niệm được sử dụng ngày càng rộng rãi không chỉ bởi các tổ chức phi chính phủ, mà còn bởi Liên hiệp quốc (LHQ) và các tổ chức liên chính phủ quốc tế[1], các quốc gia và giới học thuật. Theo IPPF[2], quyền về tình dục là một tập hợp các quyền đang được củng cố liên quan đến tình dục mà góp phần vào tự do, bình đẳng và nhân phẩm của tất cả mọi người. Mặc dù vậy, hiện chưa có định nghĩa nào về quyền về tình dục được thừa nhận chung bởi cộng đồng quốc tế. Từ những gì được thảo luận và nghiên cứu về vấn đề này trên thế giới, theo chúng tôi, có thể hiểu quyền về tình dục là khả năng của mọi cá nhân, theo một cách thức tự do và có trách nhiệm, được biểu lộ xu hướng, thực hành và hưởng thụ đời sống tình dục một mình hoặc với người khác mà không phải chịu bất kỳ sự cản trở, trừng phạt, lạm dụng, bóc lột hay phân biệt đối xử nào, miễn là không làm ảnh hưởng đến các quyền, tự do và lợi ích chính đáng của người khác và của cộng đồng [3].
Giống như các quyền con người khác, quyền về tình dục mang tính phổ quát, dành cho mọi thành viên của nhân loại, vì vậy, về nguyên tắc, cần chú ý đến quyền về tình dục của tất cả mọi cá nhân. Tuy nhiên, trong thực tế, quyền này thường được nói đến nhiều hơn khi gắn với một số nhóm xã hội nhất định, bao gồm những nhóm có xu hướng, lựa chọn tình dục khác biệt với số đông (những người có quan hệ tình dục đồng tính (gay, lesbian), song tính (bisexual) và người chuyển giới (transgender), mà được gọi chung là nhóm LGBT) và những nhóm bị thiệt thòi, lạm dụng hoặc bị phân biệt đối xử trong việc biểu lộ và hưởng thụ tình dục, cụ thể như những người khuyết tật, phụ nữ, người sống chung với HIV, người chưa thành niên và trong một chừng mực nhất định là cả người lao động tình dục (hành nghề mại dâm)[4].
Quyền về tình dục rất gần gũi nhưng không hoàn toàn đồng nhất với các quyền về hôn nhân/gia đình(marriage/family rights) và quyền sinh sản (reproductive rights). Về nội hàm, quyền về tình dục rộng hơn, bao gồm quyền sinh sản, do quyền sinh sản chủ yếu chỉ đề cập đến tự do của các cá nhân trong việc quyết định có con và được tiếp cận với các dịch vụ về sức khoẻ sinh sản[5]. Tuy nhiên, quyền về tình dục đề cập sâu hơn về tự do tình dục, nhưng hẹp hơn về các khía cạnh tài sản và con cái - là những nội dung cốt lõi của các quyền về hôn nhân/gia đình. Về phương diện pháp lý và lịch sử, các quyền về hôn nhân/gia đình và quyền sinh sản được pháp điển hoá trong luật quốc tế và luật quốc gia sớm hơn so với quyền về tình dục. Từ nhiều góc độ, đặc biệt là góc độ pháp lý, có thể coi quyền về tình dục là một sự phát triển, mở rộng của các quyền về hôn nhân/gia đình và quyền sinh sản.
2. Quyền về tình dục trong luật nhân quyền quốc tế
Theo nghĩa rộng, một số quyền liên quan đến tình dục đã được đề cập từ lâu trong luật nhân quyền quốc tế (Luật NQQT)[6]. Cụ thể, Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người (UDHR, 1948) tại Điều 16 đã ghi nhận quyền bình đẳng trong việc kết hôn, lập gia đình và trong quan hệ gia đình của nam và nữ, đồng thời quy định nguyên tắc nền tảng là việc hôn nhân phải xuất phát từ quyết định tự do, đồng thuận của cả hai bên. Những quy định này sau đó được tái ghi nhận trong cả hai Công ước quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị (ICCPR, 1966) và Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội, văn hoá năm 1966 (ICESCR, 1966) tại các Điều 10 và Điều 23, và Công ước về Kết hôn tự nguyện, tuổi kết hôn tối thiểu và việc đăng ký kết hôn năm 1964. Vào những thập kỷ tiếp theo, các Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW, 1979), Công ước về Quyền trẻ em (CRC, 1989) cùng hai nghị định thư bổ sung CRC và một số điều ước quốc tế khác về quyền con người đã mở rộng vấn đề bằng việc cấm bóc lột, lạm dụng tình dục, buôn bán phụ nữ, trẻ em và ghi nhận các quyền sinh sản của phụ nữ. Trong Tuyên bố Viên và Chương trình hành động được thông qua tại Hội nghị thế giới về Nhân quyền năm 1993, các quyền được lựa chọn người phối ngẫu; quyền được bình đẳng trong đời sống hôn nhân và gia đình; quyền không bị lạm dụng, bóc lột về tình dục; quyền được lựa chọn các biện pháp tránh thai và được hưởng các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình… một lần nữa được đề cập và nhấn mạnh.
Công ước về Quyền của người khuyết tật (CRPD, 2006) - một trong hai công ước quốc tế về nhân quyền đầu tiên của thế kỷ XXI - đã ghi nhận quyền được bảo vệ khỏi sự bóc lột tình dục (Điều 16, Điều 17); quyền được kết hôn, lập gia đình với sự tự nguyện và đồng thuận (Điều 23); quyền được có con và quyết định số lượng, khoảng cách giữa các lần sinh con (Điều 23); quyền được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tình dục và sinh sản (Điều 23, Điều 25) của người khuyết tật. Trước đó, vào năm 1993, Đại hội đồng LHQ đã thông qua Nghị quyết số 48/96 về Các quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng hoá những cơ hội cho người khuyết tật (Standard Rules on the Equalization of Opportunities for Persons with Disabilities), trong đó có Quy tắc thứ 9 về đời sống gia đình và sự toàn vẹn cá nhân. Quy tắc này đòi hỏi các quốc gia thúc đẩy sự tham gia đầy đủ của người khuyết tật vào đời sống gia đình, xoá bỏ những quy định của pháp luật phân biệt đối xử với người khuyết tật về các vấn đề như quan hệ tình dục, kết hôn và làm cha mẹ, đồng thời có các biện pháp chống sự lạm dụng, cưỡng bức tình dục với người khuyết tật.
Trong bản báo cáo công bố vào năm 2011 với tiêu đề Luật phân biệt đối xử và thực tiễn, hành động bạo lực chống lại những cá nhân bởi khuynh hướng tình dục và nhân dạng giới của họ[7], Cao uỷ Nhân quyền LHQ khẳng định quyền hưởng thụ tình dục thuộc về đời tư của cá nhân. Quyền này, cùng với các quyền dân sự, chính trị khác, được áp dụng cho tất cả mọi người, không phân biệt khuynh hướng tình dục, nhân dạng giới, tình trạng sức khoẻ hay bất cứ yếu tố nào khác. Báo cáo đặc biệt lên án những quốc gia hình sự hoá các hành vi tình dục đồng giới, coi đó là sự vi phạm nhân quyền. Trong phán quyết về vụ Toonen kiện Australia[8], Uỷ ban Nhân quyền (HRC - cơ quan giám sát thực hiện ICCPR) cho rằng, theo Luật NQQT, các nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ mọi công dân khỏi sự phân biệt đối xử vì khuynh hướng tình dục của họ.
Những văn kiện nêu trên cho thấy quan điểm rất rộng của LHQ về các quyền liên quan đến tình dục, trong đó lấy nền tảng là nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử về chủ thể quyền và xuất phát điểm là các quyền về hôn nhân/gia đình và quyền sinh sản.
Mặc dù vậy, cần thấy rằng, cho đến thời điểm hiện nay, Luật NQQT thực tế không quy định một quyền cụ thể nào gọi là quyền về tình dục, mà chỉ có những quy định về các quyền liên quan đến việc hưởng thụ đời sống tình dục của con người. Khái niệm quyền về tình dục chỉ được đề cập và thảo luận trên các diễn đàn quốc tế từ cuối thập kỷ 1980, sau sự bùng nổ của đại dịch HIV/AIDS, chủ yếu bởi các tổ chức của người đồng tính và các tổ chức hoạt động thúc đẩy quyền của phụ nữ. Khái niệm quyền về tình dục đã được nỗ lực đưa vào văn kiện của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển tổ chức tại Cairo, Ai Cập năm 1994 như là sự bổ sung cho khái niệm quyền sinh sảnnhưng không thành công. Tuy nhiên, vấn đề này đã được đưa vào đoạn 96 của Tuyên bố Bắc Kinh và Cương lĩnh Hành động (được thông qua tại Hội nghị thế giới về Phụ nữ lần thứ 4 ở Bắc Kinh, Trung Quốc, năm 1995), trong đó nêu rằng: “Quyền con người của phụ nữ bao gồm quyền được kiểm soát và quyết định một cách tự do và có trách nhiệm về những vấn đề liên quan đến tình dục của họ, bao gồm sức khỏe tình dục và sức khoẻ sinh sản, không bị cưỡng bức, phân biệt đối xử và bạo lực trong tình dục. Mối quan hệ bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong các vấn đề quan hệ tình dục và sinh sản, bao gồm cả tôn trọng đầy đủ sự toàn vẹn về thể chất, đòi hỏi phải có sự tôn trọng lẫn nhau, đồng thuận và chia sẻ trách nhiệm đối với hành vi tình dục và hậu quả của nó”.
Không lâu sau, nội hàm của quyền về tình dục đã được cụ thể hoá qua Tuyên ngôn về Quyền về tình dục (được thông qua tại Hội nghị thế giới lần thứ 14 về Tình dục, tổ chức tại Hồng Kông, Trung Quốc, năm 1999) và được sửa đổi vào năm 2014[9]. Theo bản Tuyên ngôn năm 2014, quyền về tình dục gồm 16 quyền - là các quyền con người liên quan đến [khía cạnh] tình dục. Nói cách khác, quyền về tình dục là một quyền hàm chứa hay một khía cạnh của nhiều quyền con người khác đã được ghi nhận trong Luật NQQT (cụ thể là UDHR, ICCPR và ICESCR)[10].
3. Quyền về tình dục trong pháp luật của các quốc gia
Hiện tại, chưa có khảo sát toàn diện nào về quyền về tình dục trong pháp luật các quốc gia được công bố. Tuy nhiên, thông qua một số nghiên cứu hiện có về quyền của LGBT và của người khuyết tật - hai nhóm tiêu biểu khi nói đến quyền về tình dục - có thể thấy được phần nào bức tranh tổng thể về vấn đề này trên thế giới.
3.1. Quyền về tình dục của LGBT trong pháp luật các quốc gia
Báo cáo kết quả khảo sát về thực trạng bảo đảm quyền của LGBT trên thế giới do Hiệp hội quốc tế của những người đồng giới nam, nữ, người song tính và chuyển giới (ILGA) thực hiện và công bố tháng 5/2015 cho thấy[11], bức tranh quyền về tình dục của LGBT trên thế giới ngày càng sáng hơn khi số quốc gia coi tình dục đồng giới là vi phạm pháp luật ngày càng giảm xuống (từ 92 năm 2006 xuống còn 76 năm 2015), trao quyền dân sự cho các cặp đồng tính (kết hôn, kết hợp dân sự, nhận con nuôi,…), cấm phân biệt đối xử dựa trên cơ sở nhận dạng giới và định hướng tính dục,…
Mặc dù vậy, báo cáo trên cũng cho thấy sự phân biệt đối xử với LGBT trong vấn đề tình dục vẫn còn khá phổ biến trên thế giới, khi số quốc gia vẫn duy trì các quy định của pháp luật về trừng phạt hành vi tình dục đồng giới vẫn còn khá cao (76/193 quốc gia, trong đó có một số quốc gia/khu vực quy định hình phạt tử hình). Ngoài ra, vẫn còn ít quốc gia ban hành pháp luật quy định cụ thể về cấm phân biệt đối xử dựa trên định hướng tính dục (63/193), trao các quyền dân sự (với những mức độ khác nhau) cho các cặp đôi đồng giới (19/193). Đặc biệt, mới chỉ có 18/193 quốc gia pháp luật chính thức cho phép hôn nhân đồng giới.
Cũng từ báo cáo nêu trên, có thể thấy những quốc gia tiến bộ, cởi mở nhất về quyền về tình dục của LGBT chủ yếu là những nước có nền dân chủ phát triển ở các khu vực Tây Âu, châu Mỹ và châu Đại Dương, trong khi những quốc gia tỏ ra “khắc nghiệt” nhất trong vấn đề này chủ yếu là những nước đang phát triển hoặc theo Hồi giáo ở khu vực châu Phi, Trung Đông, Nam và Đông Nam Á. Những nước chịu ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo và thuộc khối xã hội chủ nghĩa trước đây (gồm Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên hiện nay) nằm ở giữa hai khối nước trên (không coi tình dục đồng giới là trái pháp luật, song chưa có luật cụ thể về chống phân biệt đối xử cũng như chưa thừa nhận các quyền dân sự của các cặp đồng giới). Thực trạng này cho thấy có mối liên hệ khá rõ ràng giữa trình độ phát triển của dân chủ và đặc trưng tôn giáo, văn hoá với việc thừa nhận và bảo đảm các quyền về tình dục của LGBT.
3.2. Quyền về tình dục của người khuyết tật trong pháp luật các quốc gia
Tuy không tập trung riêng vào vấn đề quyền về tình dục, kết quả của cuộc Khảo sát toàn cầu về hành động của các chính phủ trong việc thực thi các quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng hoá các cơ hội cho người khuyết tật (Global Survey on Government Action on the Implementation of the Standard Rules on the Equalization of Opportunities for Persons with Disabilities) do Báo cáo viên đặc biệt về người khuyết tật của LHQ công bố trong các năm 1997 và 2006 cung cấp một số thông tin về thực trạng pháp lý về các quyền liên quan đến tình dục của người khuyết tật ở các quốc gia được khảo sát như sau[12]:
 
Tên quyền
Tỷ lệ quốc gia được khảo sát mà pháp luật không ghi nhận các quyền này
Báo cáo của
 chính phủ
Báo cáo của
các NGOs
1
Quyền kết hôn
22,5%
37,3%
2
Quyền có gia đình/làm cha mẹ
21,3%
40,3%
3
Quyền về đời tư
22,5%
29,9%
4
Quyền được chăm sóc y tế
11,1%
25,5%
5
Quyền được sống độc lập
42,0%
63,4%
6
Tham gia vào việc ra các quyết định liên quan đến bản thân mình
40,7%
60,0%
Từ bảng trên, có thể thấy hiện vẫn còn khoảng 25% trong số 85 quốc gia trên thế giới chưa bảo đảm quyền liên quan đến tình dục của người khuyết tật trong pháp luật. Mặc dù số quốc gia không thừa nhận các quyền này trong pháp luật trong khoảng thời gian từ 1997 - 2006 giảm đi, song tỷ lệ lớn (khoảng hơn 50%) số quốc gia hiện vẫn không có hành động gì cụ thể để bảo đảm đời sống gia đình và sự toàn vẹn cá nhân của người khuyết tật cho thấy một khoảng trống lớn giữa pháp luật và thực tế.
4. Thực trạng quyền về tình dục và một số vấn đề đặt ra với Việt Nam
Nếu không tính đến những khía cạnh truyền thống về quyền hôn nhân/gia đình và quyền sinh sản, quyền về tình dục là vấn đề mới được thảo luận rộng rãi ở Việt Nam khoảng một thập kỷ trở lại đây, chủ yếu bởi các tổ chức xã hội[13]. Mặc dù vậy, vấn đề này đang nhận được sự quan tâm ngày càng rộng rãi của cộng đồng và của một số cơ quan hoạch định chính sách, đặc biệt trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Luật HNGĐ).
Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, các cuộc thảo luận về quyền về tình dục ở Việt Nam không chỉ xoay quanh hai nhóm chính là LGBT và người khuyết tật, mà ít nhiều đã được mở rộng đến một số nhóm khác như phụ nữ, thanh thiếu niên, người lao động di trú[14],… Điều này phản ánh sự nhạy cảm của các tổ chức xã hội ở Việt Nam và phù hợp với cách tiếp cận của Luật NQQT trong đó coi các quyền con người, bao gồm các quyền liên quan đến tình dục, là có tính phổ quát, áp dụng cho mọi cá nhân.
Xét về nội dung, các cuộc thảo luận về quyền về tình dục trên các diễn đàn ở Việt Nam tỏ ra khá phong phú, trong đó đề cập đến một loạt yếu tố như về sức khoẻ (bản chất của hoạt động tình dục; tác dụng của tình dục với sức khoẻ thể chất, tinh thần của con người), về tâm lý - xã hội (tác động của tình dục với sự gắn kết trong gia đình, cộng đồng; thực trạng phân biệt đối xử và vấn nạn lạm dụng, bạo lực tình dục với một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương); về văn hoá (ảnh hưởng của những yếu tố văn hoá với quan niệm và đời sống tình dục của các cá nhân và cộng đồng) và về pháp lý (khoảng trống trong pháp luật quốc gia về các quyền của con người trong việc hưởng thụ tình dục)[15],… Đã có một số công trình nghiên cứu khá công phu, toàn diện về vấn đề tình dục và quyền về tình dục ở Việt Nam, đặc biệt dưới góc độ xã hội học[16]. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều khía cạnh lý luận và thực tiễn về vấn đề này cần được làm sáng tỏ, cụ thể như phạm vi những chủ thể đặc biệt của các quyền về tình dục (ngoài hai nhóm thường được đề cập là LGBT và người khuyết tật); giới hạn của các quyền này trong mối quan hệ với việc bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của người khác và trật tự, đạo đức của cộng đồng; khuôn khổ trách nhiệm của các nhà nước trong việc bảo đảm các quyền này trong pháp luật và thực tế…
Trên phương diện pháp lý, Luật về Người khuyết tật năm 2010 đã gián tiếp thừa nhận quyền về tình dục của nhóm xã hội này khi cấm cản trở quyền kết hôn, quyền nuôi con của người khuyết tật (Điều 14). Thêm vào đó, Luật này cũng quy định các quyền bình đẳng tham gia vào các hoạt động xã hội; quyền sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; quyền được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác… của người khuyết tật. Những quy định đó, cùng với các quy định khác có liên quan trong các Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật HNGĐ,… cho thấy Việt Nam đã có một khuôn khổ pháp luật khá tiến bộ về quyền về tình dục của người khuyết tật, tuy vẫn cần có những quy định cụ thể hơn nữa về quyền này cũng như về nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan trong việc bảo đảm các điều kiện hưởng thụ tình dục cho người khuyết tật.
Mặc dù vậy, thực trạng đời sống tình dục của người khuyết tật ở Việt Nam hiện vẫn rất ảm đạm. Theo một số nghiên cứu gần đây, tỷ lệ người khuyết tật ở độ tuổi sinh hoạt tình dục tích cực nhất (tuổi thanh niên) có quan hệ tình dục “vô cùng thấp, gần như không”. Kết quả là có đến 60% người khuyết tật bị trầm cảm từ nhẹ đến nặng[17]. Nhìn một cách tổng quát, có thể xác định một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng này như sau:
Thứ nhất, định kiến nặng nề trong xã hội và trong các gia đình coi người khuyết tật không hoặc ít có nhu cầu về tình dục. Định kiến này dẫn tới niềm tin là không cần thiết phải ghi nhận các quyền và có biện pháp bảo đảm các quyền về tình dục cho người khuyết tật.
Thứ hai, chính sách sàng lọc thai nhi theo thuyết ưu sinh đã được thực hiện ở nhiều quốc gia và đang được triển khai ở Việt Nam, trong đó loại bỏ các bào thai nghi bị dị tật. Tuy có ý nghĩa tốt về phương diện sức khoẻ cộng đồng, song chính sách này lại đặt ra những câu hỏi về phương diện đạo đức, vì nó đồng nghĩa với việc tước bỏ quyền sống của những bào thai dị tật, đồng thời gián tiếp làm tăng sự kỳ thị với người khuyết tật, đặc biệt là quyền về tình dục của họ, do lo ngại rằng người khuyết tật sẽ sinh ra những trẻ em khuyết tật.
Thứ ba, cách hiểu hạn hẹp về việc đáp ứng các nhu cầu tình dục của người khuyết tật mà trong đó, tình dục chủ yếu được hiểu là giao hợp giữa hai người khác giới mà không bao gồm những cách thức tìm kiếm và tận hưởng khoái cảm tình dục khác, ví dụ như thông qua thủ dâm, mua dâm hoặc sử dụng đồ chơi tình dục,... Hậu quả của cách hiểu hạn hẹp này đã củng cố định kiến và sự bàng quan của xã hội với việc thừa nhận và bảo đảm quyền được hưởng thụ tình dục của người khuyết tật, gạt những người khuyết tật (và cả một số nhóm người không khuyết tật nhưng không có điều kiện hưởng thụ đời sống tình dục theo cách thức quan hệ vợ chồng, ví dụ như những người già, người sống độc thân, người phải thường xuyên sống xa gia đình do công việc, nghề nghiệp…) khỏi cơ hội hưởng thụ khoái cảm tình dục.
Thứ tư, tâm lý mặc cảm, tự ti của người khuyết tật trong vấn đề tình dục và năng lực hạn chế của họ trong việc vận động, đấu tranh cho các quyền được hưởng thụ tình dục của bản thân mình. Điều này khiến cho vấn đề quyền về tình dục của người khuyết tật mãi đến mấy năm gần đây mới được nêu ra thảo luận và hoàn toàn vẫn chưa đủ mạnh để tạo ra những thay đổi về pháp luật, chính sách và tâm lý xã hội. Có thể nói, quyền về tình dục của người khuyết tật ở Việt Nam hiện vẫn đang bị lu mờ, chìm lấp trong một loạt vấn đề khác mà thường được ưu tiên bởi các gia đình và trong chính sách về người khuyết tật của Nhà nước, chẳng hạn như bảo đảm đời sống, phục hồi chức năng, hay giáo dục đặc biệt…
Liên quan đến các quyền về tình dục của LGBT, về phương diện pháp lý, việc sống chung, kể cả có hay không tổ chức đám cưới theo các nghi lễ truyền thống của các cặp đồng giới ở nước ta hiện không bị coi là trái pháp luật và thực tế đang diễn ra, song Luật HNGĐ của Việt Nam từ trước đến nay (1959, 1986, 2000, 2014) vẫn chưa thừa nhận hôn nhân đồng giới và các quyền dân sự của các cặp đồng tính sống chung.[18] Về vấn đề này, theo HRC, trong khi việc không thừa nhận hôn nhân đồng giới không bị coi là vi phạm[19], thì việc không bảo đảm các quyền dân sự cho các cặp đồng tính sống với nhau không có hôn thú chính thức một cách bình đẳng như các cặp nam nữ trong cùng bối cảnh sẽ bị coi là phân biệt đối xử theo Luật NQQT [20].
Như vậy, mặc dù Luật HNGĐ năm 2014 không cấm kết hôn đồng giới, nhưng việc không thừa nhận nó đã và vẫn đang gây ra sự phân biệt đối xử với các cặp đồng tính sống với nhau không có hôn thú chính thức, bởi những cặp này không được hưởng các quyền dân sự, trong khi theo pháp luật hiện hành, những trường hợp chưa đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm các điều kiện kết hôn khác (hôn nhân thực tế) mà có tranh chấp phát sinh thì các vấn đề về quan hệ vợ chồng, con cái vẫn được toà án giải quyết (Điều 14, Điều 15, Điều 16 Luật HNGĐ năm 2014)[21].
Do đó, Nhà nước nên tiếp tục nghiên cứu sửa đổi các quy định của pháp luật có liên quan trong BLDS, Luật HNGĐ, Luật Nuôi con nuôi, Luật Hộ tịch,… để cho phép các cặp đồng tính có thể cùng nhận con nuôi, thừa kế tài sản của nhau và các quyền dân sự khác tương tự như các cặp đôi chung sống khác giới tính. Hiện nay, theo quy định tại Điều 37 BLDS năm 2015, những người đã phẫu thuật chuyển giới được thay đổi họ tên và giới tính của họ trên giấy tờ tuỳ thân theo pháp luật về hộ tịch. Điều 37 BLDS năm 2015 cũng mở ra khả năng thừa nhận quyền chuyển giới khi quy định: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật”, nhưng các điều kiện và trình tự, thủ tục cụ thể cho việc chuyển giới sẽ đợi đến khi có luật cụ thể hoá Điều 37 BLDS năm 2015. Khi xây dựng Luật này, Nhà nước nên tham khảo các khuyến nghị của HRC[22] về quyền chuyển giới, trong đó bao gồm việc thừa nhận những người đã phẫu thuật chuyển giới có thể thay đổi họ tên và giới tính của họ trên giấy tờ tuỳ thân mà không kèm theo điều kiện phẫu thuật.   
Ngoài ra, theo nghĩa rộng, Nhà nước và cộng đồng cần quan tâm hơn nữa đến việc bảo đảm và cải thiện quyền hưởng thụ tình dục chính đáng của một số nhóm xã hội khác đang gặp những khó khăn nhất định về vấn đề này như phụ nữ (một bộ phận), người độc thân, người già, người sống chung với HIV, người lao động nhập cư từ nông thôn, thanh thiếu niên, người lao động tình dục,… Liên quan đến khía cạnh này, nên tiếp tục nghiên cứu khả năng coi mại dâm là một nghề hợp pháp, trước hết là để bảo vệ, thúc đẩy nhân phẩm và các quyền của người lao động tình dục, sau đó là để quản lý các bệnh lây truyền và góp phần bảo đảm quyền hưởng thụ tình dục của những nhóm mà do điều kiện sống hay do nghèo khó, bệnh tật/dị tật không thể hoặc khó có thể được hưởng thụ tình dục bằng quan hệ vợ chồng hay tình yêu. Ngoài ra, cũng nhằm mục đích đó, Nhà nước nên xem xét sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành có liên quan để tạo điều kiện sản xuất, buôn bán các dụng cụ tình dục, bao gồm các búp bê tình dục.
Theo nghĩa cơ bản nhất, quyền về tình dục cũng chính là quyền mưu cầu hạnh phúc chính đáng của con người, vì vậy, việc bảo đảm quyền này trong thực tế có ý nghĩa nhân văn cao cả. Việt Nam chưa là một nước giàu có, nhưng là một nước có nền văn hoá giàu nhân bản. Nhà nước cần quan tâm đến việc bảo vệ và thúc đẩy tất cả các quyền chính đáng của người dân, trong đó có bao gồm các quyền về tình dục./.

 


[1] Xem: Phát biểu của ông Ban Ki-moon Tổng thư ký LHQ; ông Michel Sidibé - Giám đốc điều hành Chương trình của LHQ về phòng, chống HIV/AID (UNAIDS) nhân Ngày thế giới phòng, chống AIDS 01/12/2012, đăng tại http://www.un.org/en/events/aidsday/2012/statements.shtml, truy cập: 5/6/2015.
[2] IPPF là viết tắt của tổ chức International Planned Parenthood Federation (tạm dịch: Liên đoàn quốc tế các bậc cha mẹ có kế hoạch). Xem: http://www.ippf.org/resource/Sexual-Rights-IPPF-declaration, truy cập: 5/6/2015.
[3] Cũng xem đề xuất (không phải là định nghĩa chính thức) được đưa ra thảo luận bởi Tổ chức Y tế thế giới (WHO), theo đó quyền về tình dục là những quyền con người được thừa nhận trong pháp luật của các quốc gia, các văn kiện nhân quyền quốc tế và các tuyên bố đồng thuận khác. Nó bao gồm quyền của tất cả mọi người, một cách tự do không bị cưỡng bức, phân biệt đối xử và bạo lực, được: (i) hưởng tiêu chuẩn cao nhất có thể về sức khoẻ tình dục, bao gồm việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản và tình dục; (ii) tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin liên quan đến tình dục; (iii) hưởng giáo dục tình dục; (iv) tôn trọng sự toàn vẹn về thân thể; (v) lựa chọn bạn tình: (vi) quyết định có tham gia hoạt động tình dục hay không; (vii) có các quan hệ đồng thuận về tình dục; (viii) kết hôn dựa trên sự đồng thuận; (ix) quyết định có con hay không và vào khi nào; (x) theo đuổi một đời sống tình dục thỏa mãn, an toàn và thú vị. Mọi người khi hưởng thụ các quyền này đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng các quyền của người khác. Xem: http://www.who.int/reproductivehealth/topics/gender_rights/sexual_health/en/, truy cập: 5/6/2015.
[5] Xem: Chương trình hành động của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển, Cairo 1994, đoạn 7.3, đăng tại: http://www.un.org/popin/icpd/conference/offeng/poa.html; và Chương trình hành động Hội nghị Phụ nữ thế giới lần 4, Bắc Kinh 1995, đoạn 95, đăng tại: http://www.un.org/womenwatch/daw/beijing/pdf/BDPfA%20E.pdf, truy cập: 5/6/2015.
[6] Các văn kiện quốc tế về quyền con người có liên quan đến vấn đề này được đăng tại: http://www.ohchr.org/
EN/ProfessionalInterest/Pages/UniversalHumanRightsInstruments.aspx
, truy cập: 5/6/2015.
[7] Xem: Báo cáo của Cao ủy Nhân quyền LHQ năm 2011: Discriminatory laws and practices and acts of violence against individuals based on their sexual orientation and gender identity, đăng tại: http://www2.ohchr.org/
english/bodies/hrcouncil/docs/19session/a.hrc.19.41_english.pdf
, truy cập: 5/6/2015.
[8] Xem: Toonen v. Australia, Communication No. 488/1992, U.N. Doc CCPR/C/50/D/488/1992 (1994), đăng tại: http://www.equalrightstrust.org/ertdocumentbank/Toonen%20v.%20Australia.pdf, truy cập: 5/6/2015.
[10] Bao gồm 16 quyền: (i) Quyền bình đẳng và không phân biệt đối xử (right to equality and non-discrimination); (ii) Quyền sống, tự do và an ninh của cá nhân (right to life, liberty and security of the person); (iii) Quyền tự chủ và toàn vẹn về thân thể (right to autonomy and bodily intergrity); (iv) Quyền tự do khỏi bị tra tấn và các hình thức đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp (right to be free from torture and cruel, inhuman, or degrading treatment or punishment); (v) Quyền tự do khỏi tất cả các hình thức bạo lực hay ép buộc (right to be free from all forms of violence and coercion); (vi) Quyền riêng tư (right to privacy); (vii) Quyền được hưởng tiêu chuẩn cao nhất về sức khỏe, bao gồm sức khỏe tình dục; với khả năng trải nghiệm tình dục thú vị, thỏa mãn và an toàn (right to the highest attainable standard of health, including sexual health; with the possibility of pleasurable, satisfying, and safe sexual experiences); (viii) Quyền được hưởng những lợi ích của tiến bộ khoa học và ứng dụng của nó (right to enjoy the benefits of scientific progress and its application); (ix) Quyền [tiếp cận] thông tin (right to information); (x) Quyền giáo dục và quyền giáo dục tình dục toàn diện (right to education and the right to comprehensive sexuality education); (xi) Quyền được tiến hành, tạo lập và chấm dứt hôn nhân và các dạng quan hệ tương tự khác dựa trên sự bình đẳng và chấp thuận đầy đủ và tự do (right to enter, form, and dissolve marriage and other similar types of relationships based on equality and full and free consent); (xii) Quyền quyết định có con, số lượng và khoảng cách giữa các con, và có thông tin và các biện pháp để thực hiện việc này (right to decide whether to have children, the number and spacing of children, and to have the information and the means to do so); (xiii) Quyền tự do tư tưởng, quan điểm và biểu đạt (right to the freedom of thought, opinion, and expression); (xiv) Quyền tự do hiệp hội và hội họp hòa bình (right to freedom of association and peaceful assembly); (xv) Quyền tham gia vào cộng đồng và đời sống chính trị (right to participation in public and political life); (xvi) Quyền tiếp cận công lý, bồi thường và khắc phục (right to access to justice, remedies, and redress).
[12] Xem: Government Action on Disability Policy, A Global Survey (Báo cáo khảo sát giai đoạn 1, khảo sát ở 85 quốc gia), công bố tại: http://www.independentliving.org/standardrules/UN_Answers/UN.pdf, tr.14-15, 162, truy cập: 9/6/2015. Tổng hợp và lập bảng bởi các tác giả.
[13] Nhận định này căn cứ vào việc khảo sát những bài viết, thông tin có liên quan của các cá nhân, tổ chức trong nước được đăng tải trên mạng Internet. Một số tổ chức phi chính phủ (NGO) trong nước có vai trò tích cực trong vấn đề này trong thời gian qua như Trung tâm sống độc lập của người khuyết tật Hà Nội; Trung tâm Sáng kiến Sức khỏe và Dân số (CCIHP); Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE); Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS); Tổ chức bảo vệ và thúc đẩy quyền của người LGBT tại Việt Nam (ICS);…
[14] Ví dụ, ICS đã tổ chức một cuộc triển lãm ảnh với tiêu đề: “Sao không nói” - Triển lãm quyền về tình dục hướng về các đối tượng chính là thanh thiếu niên vào tháng 7/2012.
[16] Ví dụ, xem cuốn "Tình dục trong xã hội Việt Nam đương đại: Chuyện dễ đùa mà khó nói" của nhóm tác giả Khuất Thu Hồng, Lê Bạch Dương và Nguyễn Ngọc Hương, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2012.
[17]Xem các bài viết liên quan đến chủ đề này ở chú thích số 15.
[18] Điều 10(5) Luật HNGĐ năm 2000 cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Đến Luật HNGĐ năm 2014 đã bỏ quy định cấm này, tuy nhiên tại Điều 8 quy định: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”. Điều này được hiểu là những người đồng giới vẫn có thể sống chung, nhưng nếu có tranh chấp xảy ra trong quá trình chung sống thì sẽ không được pháp luật giải quyết.
[19] Về vấn đề này, HRC đã từng nêu rõ, các quốc gia thành viên ICCPR không có nghĩa vụ phải quy định cho phép hôn nhân đồng giới trong pháp luật. Xem phán quyết của HRC về vụ Joslin kiện New Zealand (CCPR/C/75/D/902/1999), tại: http://www.unhchr.ch/tbs/doc.nsf/%28Symbol%29/e44ccf85efc1669 ac1256c 37002b96c9?Opendocument, truy cập: 9/6/2015.
[20] Xem phán quyết của HRC về vụ Young kiện Australia (CCPR/C/78/D/941/2000), đoạn 10.4, tại: http://www.unhchr.ch/tbs/doc.nsf/0/3c839cb2ae3bef6fc1256dac002b3034?Opendocument, truy cập: 9/6/2015.
[21] Xem thêm các Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HNGĐ; Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 13/1/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Nghị quyết số 35/2000/QH10 thi hành Luật HNGĐ và Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình.
[22] Xem Kết luận khuyến nghị của HRC về Báo cáo quốc gia thực hiện ICCPR của Ireland năm 2008 (CCPR/C/IRL/CO/3, para. 8), và của Liên hiệp Anh và Bắc Ai-len, năm 2007 (CCPR/C/GBR/CO/6, para. 5), tại: http://tbinternet.ohchr.org/_layouts/treatybodyexternal/TBSearch.aspx?Lang=en&TreatyID=8&DocTypeID=5, truy cập: 9/6/2015.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 3(331)-tháng 2/2017)