Pháp luật về tình trạng khẩn cấp của Liên bang Nga và những gợi mở cho Việt Nam

06/08/2021

TS.CAO VŨ MINH

Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.

Tóm tắt: Tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân tác động, đe dọa sự sống còn của quốc gia. Việc tuyên bố tình trạng khẩn cấp có khả năng làm gia tăng quyền lực cho các cơ quan nhà nước. Tương ứng với sự gia tăng quyền lực nhà nước là sự hạn chế quyền và lợi ích của con người, của công dân. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích pháp luật về tình trạng khẩn cấp của Liên bang Nga và đưa ra các gợi mở cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật về tình trạng khẩn cấp ở Việt Nam.
 Từ khóa: Tình trạng khẩn cấp, pháp luật về tình trạng khẩn cấp, Liên bang Nga.
Abstract: A state of emergency is a state in which the state is in serious crisis due to different causes that provide affects threats to the national survival. The declaration of a state of emergency is likely to increase the power of state agencies. Corresponding to the increase of state power is the restriction of rights and interests of inhabitants. This article provides an analysis of the state of emergency law of the Russian Federation, and suggests experiences of Vietnam.
Keywords: State of emergency; legal regulations on state of emergency; the Russian Federation.
 
KHẨN-CẤP.jpg1. Pháp luật về tình trạng khẩn cấp của Liên bang Nga
1.1. Cơ sở pháp lý ban hành tình trạng khẩn cấp
“Tình trạng khẩn cấp” (state of emergency) là trạng thái xã hội, do nhiều nguyên nhân tác động, lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng đe dọa sự sống còn của quốc gia. Do đó, nhằm bảo vệ đất nước; bảo đảm lợi ích công cộng; bảo vệ tính mạng, tài sản của cá nhân, tổ chức, các cơ quan có thẩm quyền thiết lập những biện pháp, quy tắc đặc biệt không được áp dụng trong điều kiện bình thường[1]. Nói cách khác, tình trạng khẩn cấp là tình huống mà chính quyền, vì lợi ích chung, có thể ban hành những chính sách hoặc thực hiện những hành động mà thông thường không được áp dụng.
Tại Liên bang Nga, tình trạng khẩn cấp chỉ được áp dụng theo những quy định được ghi nhận trong Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 và Luật Tình trạng khẩn cấp Liên bang Nga năm 2001 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 (Luật Tình trạng khẩn cấp năm 2001). Điều 1 Luật Tình trạng khẩn cấp năm 2001 quy định: “Tình trạng khẩn cấp là một chế độ pháp lý đặc biệt …, được áp dụng trên toàn lãnh thổ Liên bang Nga hoặc ở địa phương, cho phép hạn chế đối với các quyền, tự do của công dân Liên bang Nga, người nước ngoài, người không có quốc tịch,quyền của các tổ chức xã hội, hiệp hội, hoặc đặt ra những nghĩa vụ bổ sung cho các chủ thể này”. Như vậy, cơ sở pháp lý của việc ban hành tình trạng khẩn cấp ở Liên bang Nga là Hiến pháp và Luật Tình trạng khẩn cấp.
1.2. Phân định tình trạng khẩn cấp
Theo quy định của Điều 3 Luật Tình trạng khẩn cấp năm 2001, tình trạng khẩn cấp chỉ được ban hành trong trường hợp đe dọa trực tiếp đến tính mạng và an ninh của công dân, của con người hoặc nền tảng của chế độ hiến định Liên bang Nga. Pháp luật Liên bang Nga quy định hai trường hợp dẫn đến tình trạng khẩn cấp là: (i) Cưỡng ép bằng vũ trang, khủng bố, bạo loạn để thay đổi chế độ hiến định Liên bang Nga hoặc các hành vi bạo lực đe dọa trực tiếp đến tính mạng và an ninh của công dân, hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước; (ii) Tình trạng khẩn cấp do hiện tượng thiên nhiên nguy hiểm, thiên tai, dịch bệnh hoặc các thảm họa khác kéo theo gây thiệt hại đối với con người[2].
Nếu căn cứ vào nội dung và nguyên nhân phát sinh thì trường hợp (i) được xem là tình trạng khẩn cấp về an ninh, quốc phòng. Đây là tình trạng khẩn cấp có nguyên nhân từ ý chí, hành vi của con người. Trong khi đó, trường hợp (ii) được xem là tình trạng khẩn cấp về thiên tai, dịch bệnh, rủi ro công nghệ... Đây là tình trạng khẩn cấp có nguyên nhân từ sự biến - tức là những hiện tượng của đời sống khách quan xảy ra mà không phụ thuộc vào ý chí của con người như thiên tai, dịch bệnh…[3].
1.3. Thủ tục ban hành tình trạng khẩn cấp
Theo quy định của Luật Tình trạng khẩn cấp năm 2001, khi có những tình huống đã được dự liệu phát sinh trên thực tế, Tổng thống Liên bang Nga sẽ ban hành sắc lệnh về tình trạng khẩn cấp (Điều 5). Sắc lệnh của Tổng thống Liên bang Nga về việc ban hành tình trạng khẩn cấp sẽ được báo cáo cho Hội đồng Liên bang (Thượng viện) vàDuma Quốc gia (Hạ viện), và công bố ngay lập tức qua các kênh phát thanh, truyền hình, báo chí (Điều 6). Khi nhận được báo cáo của Tổng thống về việc ban bố tình trạng khẩn cấp, hai viện của Quốc hội liên bang sẽ cho ý kiến, nhưng quyết định cuối cùng về việc phê chuẩn sắc lệnh này thuộc về Hội đồng Liên bang[4].
Trong thời hạn không quá 72 giờ kể từ khi công bố sắc lệnh của Tổng thống Liên bang Nga về việc ban hành tình trạng khẩn cấp, Hội đồng Liên bang sẽ xem xét vấn đề phê chuẩn sắc lệnh. Trong trường hợp sắc lệnh của Tổng thống Liên bang Nga không được Hội đồng Liên bang thông qua, sắc lệnh sẽ hết hiệu lực sau 72 giờ kể từ thời điểm ban hành (Điều 7). Như vậy, quy định về thẩm quyền của Tổng thống Liên bang Nga ban hành tình trạng khẩn cấp là nhằm bảo đảm tính nhanh chóng, kịp thời ứng phó với tình trạng khẩn cấp; trong khi đó, sự phê chuẩn của Hội đồng Liên bang là nhằm bảo đảm cho tính cẩn trọng khi ban hành và áp dụng tình trạng khẩn cấp.
1.4. Phạm vi, nội dung và thời hạn áp dụng tình trạng khẩn cấp
Theo Luật Tình trạng khẩn cấp năm 2001, tình trạng khẩn cấp có thể được áp dụng trên phạm vi toàn lãnh thổ Liên bang Nga hoặc trong từng địa phương cụ thể. Sắc lệnh của Tổng thống Liên bang Nga về việc ban hành tình trạng khẩn cấp gồm những nội dung sau: a) Các tình huống làm cơ sở cho việc ban hành tình trạng khẩn cấp; b) Các lập luận để biện minh cho việc đưa ra tình trạng khẩn cấp; c) Phạm vi biên giới lãnh thổ áp dụng tình trạng khẩn cấp; d) Lực lượng và phương tiện bảo đảm chế độ trong tình trạng khẩn cấp; e) Danh mục các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp;  f) Các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm thi hành; g) Thời gian có hiệu lực của tình trạng khẩn cấp.
Thời hạn áp dụng tình trạng khẩn cấptrên toàn lãnh thổ Liên bang Nga không được vượt quá 30 ngày; thời hạn áp dụng tình trạng khẩn cấp trong từng địa phương là không vượt quá 60 ngày. Nếu các nguyên nhân gây ra tình trạng khẩn cấp được loại bỏ trước ngày kết thúc thời hạn có hiệu lực, Tổng thống Liên bang Nga sẽ hủy bỏ tình trạng khẩn cấp toàn bộ hoặc một phần. Khi hết thời hạn nêu trên, tình trạng khẩn cấp được coi như chấm dứt. Trong trường hợp nguyên nhân gây ra tình trạng khẩn cấp chưa được loại trừ, Tổng thống Liên bang Nga có thể ban hành sắc lệnh gia hạn thời gian áp dụng tình trạng khẩn cấp.
1.5. Các biện pháp đặc biệt áp dụng trong tình trạng khẩn cấp
Luật Tình trạng khẩn cấp Liên bang Nga quy định các biện pháp chung được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp bao gồm: a) Hạn chế quyền tự do đi lại, tự do cư trú trên toàn lãnh thổ; b) Tăng cường trật tự, an ninh; c) Hạn chế đối với các loại hoạt động kinh tế và tài chính riêng lẻ; d) Thiết lập một quy trình đặc biệt để mua bán, phân phối các sản phẩm thực phẩm và các vật dụng cần thiết hàng ngày; e) Cấm hoặc hạn chế các cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành, dã ngoại…; f) Cấm đình công; g) Hạn chế giao thông và việc kiểm tra các phương tiện giao thông; h) Đình chỉ hoạt động của các cơ sở sản xuất nguy hiểm và hoạt động của các tổ chức sử dụng chất nổ, chất phóng xạ, hóa học và sinh học nguy hiểm; j) Di dời các giá trị vật chất và văn hóa đến các khu vực an toàn hơn.
Ngoài các biện pháp chung nêu trên, pháp luật Liên bang Nga còn quy định các biện pháp đặc thù áp dụng trong tình trạng khẩn cấp về an ninh, quốc phòng hoặc tình trạng khẩn cấp về thiên tai, dịch bệnh, rủi ro công nghệ. Nói cách khác, có những biện pháp chỉ áp dụng đặc thù trong tình trạng khẩn cấp về an ninh, quốc phòng mà không thể áp dụng cho tình trạng khẩn cấp về thiên tai, dịch bệnh, rủi ro công nghệ. Ngược lại, có những biện pháp chỉ áp dụng riêng khi xảy ra tình trạng khẩn cấp về thiên tai, dịch bệnh, rủi ro công nghệ mà không đồng thời áp dụng cho tình trạng khẩn cấp về an ninh, quốc phòng.Đơn cử, có những biện pháp được áp dụng đặc thù trong tình trạng khẩn cấp về an ninh, quốc phòng như:a) Ra lệnh giới nghiêm; b) Đình chỉ hoạt động của các đảng phái chính trị và các hiệp hội xã hội khác; c) Hạn chế hoặc cấm buôn bán vũ khí, đạn dược, chất nổ, chất độc; d) Trục xuất đối với những người vi phạm chế độ tình trạng khẩn cấp mà không phải là công dân Liên bang Nga… Ngược lại, có những biện pháp được áp dụng đặc thù trong tình trạng khẩn cấp về thiên tai, dịch bệnh, rủi ro công nghệ như: a) Bắt buộc cư dân định cư tạm thời tại những khu vực an toàn hơn; b) Thực hiện kiểm dịch, thực hiện các hoạt động vệ sinh, chống dịch bệnh; c) Sử dụng dự trữ vật chất của chính phủ; d) Huy động các nguồn lực của các tổ chức…
2. Các gợi mở cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật về tình trạng khẩn cấp
2.1. Gợi mở về cơ sở pháp lý điều chỉnh vấn đề tình trạng khẩn cấp
Hiện nay, ở Việt Nam, tình trạng khẩn cấp được điều chỉnh trong rất nhiều văn bản khác nhau như: Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000, Luật An ninh quốc gia năm 2004, Luật Phòng, chống thiên tai năm 2013, Luật Quốc phòng năm 2018. Trong đó, Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 là văn bản cụ thể nhất quy định về tình trạng khẩn cấp.
   Theo khoản 13 Điều 70 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội quy định về tình trạng khẩn cấp. Khi tình trạng khẩn cấp được công bố, các cơ quan nhà nước có thể hạn chế một số quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Quy định trên cho thấy hình thức pháp lý của việc hạn chế quyền con người, quyền công dân là văn bản luật do Quốc hội ban hành. Theo tác giả, điều đó có nghĩa việc hạn chế quyền con người, quyền công dân không thể được quy định trong các văn bản khác ngoài luật như pháp lệnh, nghị quyết, nghị định... Do đó, việc duy trì Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 với nhiều quy định hạn chế quyền con người, quyền công dân là không phù hợp với nguyên tắc pháp quyền[5]. Trên cơ sở kinh nghiệm lập pháp của Liên bang Nga, tác giả cho rằng, cần nghiên cứu và sớm ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp để thay thế cho Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000.
2.2. Gợi mở về phân định tình trạng khẩn cấp
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chia tình trạng khẩn cấp thành 05 dạng: i) tình trạng khẩn cấp về quốc phòng; ii) tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia; iii) tình trạng khẩn cấp về thiên tai; iv) tình trạng khẩn cấp về thảm họa; v) tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh[6]. So với pháp luật vềtình trạng khẩn cấp của Liên bang Nga thì phân định tình trạng khẩn cấp của Việt Nam đa dạng hơn. Tuy nhiên, sự đa dạng này vẫn chưa khoa học vì còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, chồng lắp. Ví dụ, Luật Quốc phòng năm 2018 không chỉ quy định tình trạng khẩn cấp về quốc phòng mà còn điều chỉnh cả tình trạng khẩn cấp về thảm họa với tính chất là hệ quả của tình trạng khẩn cấp về quốc phòng. Điều này đã tạo ra sự chồng chéo xoay quanh việc áp dụng các biện pháp ứng phó được quy định trong Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 với Luật Quốc phòng năm 2018.
Mỗi loại tình trạng khẩn cấp khác nhau sẽ có nguyên nhân làm phát sinh khác nhau. Pháp luật Liên bang Nga cũng thừa nhận điều này và quy định hai trường hợp làm phát sinh tình trạng khẩn cấp. Theo tác giả, việc xác định nguyên nhân làm phát sinh tình trạng khẩn cấp để phân chia trường hợp và áp dụng các biện pháp đặc thù ứng phó là điều cần thiết. Do đó, Luật Tình trạng khẩn cấp cần phân định tình trạng khẩn cấpthành các loại sau: i) tình trạng khẩn cấp về an ninh, quốc phòng, ii) tình trạng khẩn cấp về thiên tai, dịch bệnh, rủi ro công nghệ. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định 06 trường hợp có thể hạn chế quyền con người, quyền công dân là: i) quốc phòng; ii) an ninh quốc gia; iii) trật tự; iv) an toàn xã hội; v) đạo đức xã hội; vi) sức khỏe của cộng đồng[7]. Việc Hiến pháp ghi nhận các trường hợp hạn chế quyền con người, quyền công dân không phải là tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước hạn chế quyền con người mà để nhằm kiểm soát hành vi lạm quyền của cơ quan nhà nước trong hạn chế quyền con người, quyền công dân[8]. Do đó, việc phân định thành hai trường hợp tình trạng khẩn cấp như đề xuất ở trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm nguyên nhân trả lời cho câu hỏi hạn chế quyền con người, quyền công dân. Cụ thể, tình trạng khẩn cấp về an ninh, quốc phòng có thể là nguyên nhân hạn chế quyền con người, quyền công dân vì liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; tình trạng khẩn cấp về thiên tai, dịch bệnh, rủi ro công nghệ có thể là nguyên nhân hạn chế quyền con người, quyền công dân vì liên quan đến sức khỏe của cộng đồng.
2.3. Gợi mở về thủ tục ban hành tình trạng khẩn cấp
Theo quy định của khoản 10 Điều 74 Hiến pháp năm 2013, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) có thẩm quyền ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Trên cơ sở nghị quyết của UBTVQH Quốc hội, Chủ tịch nước sẽ ban hành văn bản quy phạm pháp luật để công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, UBTVQH có thể không kịp thời ban bố tình trạng khẩn cấp. Điều này làm cho khả năng ứng phó của đất nước trở nên chậm chạp. Dự liệu được khả năng trên, Hiến pháp năm 2013 quy định, Chủ tịch nước có quyền công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong trường hợp UBTVQH không thể họp được.
Khi UBTVQH ban bố hoặc Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp (trong trường hợp UBTVQH không thể họp được) thì không cần báo cáo hay trình bất kỳ một chủ thể nào khác phê chuẩn. Điều này có phần khác biệt so với quy định về thẩm quyền ban hành tình trạng khẩn cấp của Tổng thống Liên bang Nga vì sắc lệnh của Tổng thống Liên bang Nga phải được trình lên Hội đồng Liên bang để phê duyệt.
Trong trường hợp UBTVQH ban bố tình trạng khẩn cấp: Do UBTVQH là cơ quan thường trực của Quốc hội nên khi ban bố tình trạng khẩn cấp sẽ bảo đảm tính nhanh chóng, kịp thời[9]. UBTVQH lại hoạt động theo nguyên tắc tập thể nên sẽ huy động được trí tuệ tập thể, từ đó bảo đảm sự cẩn trọng, toàn diện khi ban bố tình trạng khẩn cấp[10].
Trong trường hợp UBTVQH không thể họp được mà Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp, tác giả cho rằng, cần có cơ chế kiểm soát. Từ kinh nghiệm của Liên bang Nga, tác giả cho rằng, cần bổ sung thủ tục, sau khi công bố tình trạng khẩn cấp, Chủ tịch nước phải báo với Ủy ban thường vụ Quốc hội. Thủ tục này không những không vô hiệu hóa thẩm quyền của Chủ tịch nước mà còn góp phần tăng cường trách nhiệm của UBTVQH với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội trong quyết định những vấn đề hệ trọng quốc gia.
2.4. Gợi mở về phạm vi, nội dung và thời hạn áp dụng tình trạng khẩn cấp
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, tình trạng khẩn cấp ở Việt Nam có thể được áp dụng trong phạm vi cả nước hoặc ở từng địa phương cụ thể. Nội dung này có sự tương đồng với các quy định về tình trạng khẩn cấp trong pháp luật Liên bang Nga. Tuy nhiên, các quy định hiện hành của Việt Nam không xác định cụ thể những nội dung cần phải làm rõ khi ban hành tình trạng khẩn cấp như: cơ sở cho việc ban hành tình trạng khẩn cấp, các lập luận để biện minh cho việc đưa ra tình trạng khẩn cấp, thời gian có hiệu lực của tình trạng khẩn cấp. Việc tuyên bố tình trạng khẩn cấp làm gia tăng quyền lực cho các cơ quan nhà nước, hạn chế quyền và lợi ích của con người, của công dân[11]. Do đó, theo kinh nghiệm của Liên bang Nga, cần minh định những nội dung làm cơ sở cho việc ban hành tình trạng khẩn cấp.
2.5. Gợi mở về các biện pháp đặc biệt áp dụng trong tình trạng khẩn cấp
Như đã đề cập ở trên, ở nước ta hiện nay tồn tại của nhiều văn bản khác nhau quy định về tình trạng khẩn cấp, mỗi văn bản lại điều chỉnh một lĩnh vực tình trạng khẩn cấp khác nhau nên các biện pháp đặc biệt áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khá tản mạn. Trên cơ sở kinh nghiệm lập pháp của Liên bang Nga, tác giả cho rằng,cần minh định giữa biện pháp đặc biệt áp dụng trong tình trạng khẩn cấp với các biện pháp áp dụng trong điều kiện bình thường; xác định những biện pháp đặc thù áp dụng phù hợp với từng loại tình trạng khẩn cấp. Ví dụ, tổng động viên, động viên cục bộ, thiết quân luật chỉ nên được quy định là các biện pháp đặc biệt áp dụng trong tình trạng khẩn cấp về an ninh, quốc phòng chứ không thể được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp về thiên tai, dịch bệnh, rủi ro công nghệ. Việc thiết kế những biện pháp đặc thù áp dụng phù hợp với phân loại từng tình trạng khẩn cấp vừa tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước dễ dàng nhận thức, kịp thời ứng phó với tình hình thực tế, vừa hạn chế tình trạng lạm quyền, tùy tiện, vi phạm quyền con người, quyền công dân./.
 

 


[1] Oren Gross - Fionnuala Ní Aoláin, Law in Times of Crisis: Emergency powers in theory and practice, Cambridge University Press, 2006, p. 249.
[2] Article 3 Federal Constitutional Law on State of Emergency (2001 as amended 2005).
[3] Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2003, tr. 385.
[4] Mai Văn Thắng, “Mô hình phân quyền ở Liên bang Nga (Kỳ I)”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13, năm 2012.
[5]Đỗ Đức Minh, “Khái niệm, nội dung của nguyên tắc pháp quyền”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6, năm 2018.
[6] Cao Vũ Minh, “Thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong tình trạng khẩn cấp và những vấn đề cần hoàn thiện”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02, năm 2021.
[7] Bùi Tiến Đạt, “Hiến pháp hóa nguyên tắc giới hạn quyền con người: Cần nhưng chưa đủ”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6, năm 2015.
[8] Nguyễn Văn Quân, “Tiêu chí hạn chế quyền con người vì lý do trật tự công cộng trong pháp luật một số nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14, năm 2019.
[9] Khoản 1 Điều 44 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
[10] Khoản 2 Điều 44 và khoản 1 Điều 45 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định: Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội làm Phó Chủ tịch. Các thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội chịu trách nhiệm tập thể về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội”.
[11] Oren Gross - Fionnuala Ní Aoláin, Law in Times of Crisis: Emergency powers in theory and practice, Cambridge University Press, 2006, p. 267.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 10 (434), tháng 5/2021.)


Ý kiến bạn đọc