Đảm bảo quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam - thực trạng và các kiến nghị

11/02/2020

TS. NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN

Trưởng Bộ môn Công pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội

TS. MẠC THỊ HOÀI THƯƠNG

GV. Bộ môn Công pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Tóm tắt: Quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số là một trong những quyền chứa đựng nhiều yếu tố đặc thù và phản ánh rõ nhất những yếu tố “riêng biệt” trong các quyền con người của người dân tộc thiểu số. Đảm bảo quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số đã được pháp luật quốc tế và Việt Nam ghi nhận. Để thực hiện tốt hơn việc đảm bảo các quyền này, cần tăng cường hơn nữa vai trò của các cơ quan nhà nước.
Từ khóa: Quyền con người, người dân tộc thiểu số, quyền văn hóa, quyền của người dân tộc thiểu số 
Abstract: Cultural rights of the ethnic minorities are one of the rights that contain several particularised factors and most clearly reflect the "individualised" elements in the human rights of the ethnic minorities. The cultural rights of ethnic minorities are ensured by being recognized by international law and Vietnamese ones. It is required to strengthen the role of the public agencies in order to better enforce these rights.
Keywords: human rights; ethnic minorities; cutural rights; rights of the ethnic minorities. 
 LE-HOI-NGƯƠI-DÂN-TỘC.jpg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Quyền văn hóa là một phạm trù của quyền con người
Quyền văn hóa là một phạm trù của quyền con người nhằm đảm bảo tất cả mọi người không bị phân biệt đối xử có thể tự do tiếp cận, tham gia và đóng góp cho đời sống văn hóa[1]. Điều 27 Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người (UDHR) ghi nhận “Mọi người đều có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng, được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những thành tựu và lợi ích của tiến bộ khoa học…”. Điều 27 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR) cũng ghi rõ: Ở những quốc gia có nhiều nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, những cá nhân thuộc các nhóm thiểu số đó, cùng với những thành viên khác của cộng đồng mình, không bị khước từ quyền có đời sống văn hoá riêng, quyền được theo và thực hành tôn giáo riêng, hoặc quyền được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ. Về các khía cạnh của quyền văn hóa, Công ước về các Quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 (CESCR) đã cụ thể hóa trong các Điều 13, 14 và 15. Theo đó, các quyền văn hóa của con người nói chung bao gồm[2]:
- Quyền của mỗi cá nhân được tham gia vào đời sống văn hoá;
- Quyền của mỗi cá nhân được hưởng các lợi ích của tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó;
- Quyền được hưởng việc bảo vệ quyền lợi đạo đức và vật chất bắt nguồn từ các sản phẩm nghệ thuật, văn học, khoa học mà người hưởng thụ là tác giả; được tôn trọng và thừa nhận các phong tục, tập quán, lịch sử, hay những sự khác biệt về văn hoá;
- Quyền tự do không thể tước bỏ khỏi hoạt động sáng tạo nghiên cứu khoa học.
Riêng đối với người dân tộc thiểu số (DTTS), Điều 2 Tuyên bố về Quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 quy định: Những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ (dưới đây gọi là những người thuộc các nhóm thiểu số) có quyền[3]:
- Hưởng nền văn hóa (…) dưới hình thức riêng rẽ hoặc trong tập thể, một cách tự do và không bị can thiệp hay bị bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào;
- Tham gia một cách tích cực vào đời sống văn hóa tôn giáo, xã hội, kinh tế và đời sống cộng đồng;
- Tham gia một cách có hiệu quả vào những quyết định ở cấp quốc gia và trong những trường hợp thích hợp là ở cấp khu vực khi liên quan đến nhóm thiểu số mà họ là thành viên hoặc liên quan đến những vùng mà họ sống ở đó, theo một phương thức không trái với pháp luật quốc gia.
Đảm bảo và thúc đẩy việc thực hiện các quyền con người của người DTTS cũng nằm trong nghĩa vụ chung của các quốc gia. Tuy nhiên, xuất phát từ những đặc điểm riêng của người DTTS, việc đảm bảo các quyền của nhóm này cũng cần những chính sách phù hợp, có tính các yếu tố gắn liền với người DTTS. Ủy ban về các Quyền kinh tế, văn hóa và xã hội trong Nhận định chung 21 cũng đã khẳng định: Dân tộc thiểu số, cũng như những người thuộc dân tộc thiểu số, không chỉ có quyền có bản sắc riêng của họ mà còn có quyền phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống văn hóa. Bất kỳ chương trình nào hướng tới thúc đẩy sự hội nhập mang tính xây dựng của các dân tộc thiểu số và những người thuộc dân tộc thiểu số vào xã hội chung của một quốc gia thành viên cần dựa trên sự hòa nhập, tham gia và không phân biệt đối xử, nhằm bảo tồn bản sắc đặc trưng của các văn hóa thiểu số[4].
2. Chính sách, pháp luật nhằm đảm bảo quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia thống nhất với 54 dân tộc. Tính đến năm 2014, trong tổng số hơn 90 triệu dân Việt Nam có trên 12,3 triệu người thuộc 53 dân tộc thiểu số, chiếm 14,3% dân số Việt Nam, tập trung chủ yếu ở các vùng núi, đặc biệt là vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam thống nhất[5].
Điều 5 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Ngoài ra, để bảo đảm các quyền của các DTTS, Điều 42 Hiến pháp năm 2013 cũng ghi nhận: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. Đồng thời khẳng định:“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”[6]. Nguyên tắc này cũng đã được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, được thể chế và cụ thể hóa trong các văn bản luật như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Quốc tịch, Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Lao động; Luật Giáo dục; Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác…[7].
Đối với việc đảm bảo các quyền văn hóa của người DTTS, Việt Nam cũng đã dành sự quan tâm đặc biệt nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền văn hóa của người DTTS trên lãnh thổ Việt Nam, điều này được thể hiện qua một số nội dung sau:
Quyền được tham gia vào các hoạt động của đời sống văn hóa và bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa riêng
Quyền bảo tồn và phát triển văn hóa DTTS được coi là quyền đặc thù có ý nghĩa quan trọng đối với cộng đồng DTTS và đã được quy định ở nhiều văn bản khác nhau. Điều 41, Điều 42 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa; Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. Để đảm bảo quyền này, Nhà nước ta không chỉ ban hành các văn bản pháp luật chuyên ngành làm cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện quyền mà còn có các chính sách, đề án bảo tồn và phát triển văn hóa như: Đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020 theo Quyết định số 1270/QĐ-TTg hoặc là quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành khung dạy tiếng DTTS cho cán bộ, công chức công tác ở vùng DTTS, Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay[8],…
Quyền được sử dụng và phổ biến ngôn ngữ riêng và lựa chọn ngôn ngữ để giao tiếp
Trong các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, quyền sử dụng và tiếp cận ngôn ngữ đã được đề cập đến tại Điều 42 như sau: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”[9].
Điều 5 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”;
Luật Giáo dục năm 2005 quy định: “Nhà nước tạo điều kiện để người DTTS được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giúp học sinh người DTTS dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác”;
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định về tiếng nói, chữ viết dùng trước Tòa án nhân dân: “Tiếng nói, chữ viết dùng trước Tòa án là tiếng Việt. Tòa án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án nhân dân, trường hợp này phải có phiên dịch”.
Điều 21 Luật Di sản văn hóa năm 2013 cũng có những quy định tương tự. Tiếp đó, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 82/2010/NĐ-CP quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên. Bộ Giáo dục và Đào tạo đang hợp tác với UNICEF thí điểm thực hiện giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ tại 3 tỉnh Lào Cai, Trà Vinh, Gia Lai…
Quyền tiếp cận và thụ hưởng các giá trị văn hóa
Quyền thụ hưởng các giá trị văn hoá có thể hiểu là quyền được thừa nhận và bảo đảm nhu cầu cảm nhận và khai thác các giá trị, các vốn xã hội tốt đẹp được sáng tạo, lưu giữ trong đời sống cộng đồng của một cá nhân, cộng đồng nào đó.
Quyền thụ hưởng các giá trị văn hoá lần đầu tiên được nước ta ghi nhận vào một văn bản pháp lý là tại Hiến pháp năm 2013 (Điều 41). Theo đó, quyền này tập trung vào các khía cạnh sáng tạo, tiếp cận và hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần xã hội. Cụ thể, Điều 24 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”; Điều 39: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”.Điều 40 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”; Điều 41: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”.
Nhìn chung, có thể thấy, người dân dù thuộc về bất kỳ DTTS nào hay là người dân tộc Kinh, cũng đều được Nhà nước đảm bảo quyền bình đẳng trong thụ hưởng và khuyến khích phát huy các giá trị văn hóa do mình hoặc cộng đồng tạo ra. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng tạo mọi điều kiện, cả về pháp luật và cơ sở vật chất để đảm bảo quyền này của người dân, trong đó có người DTTS.
3. Một số tồn tại trong thực thi chính sách pháp luật về đảm bảo quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số
Chính sách pháp luật Việt Nam về người DTTS nói chung và về quyền văn hóa của người DTTS nói riêng vẫn tồn tại một số điểm hạn chế như:
-    Còn có sự chồng chéo, chưa phù hợp mối quan hệ giữa chính sách vùng, cộng đồng, chính sách cho hộ nói chung và chính sách dân tộc, dẫn đến các can thiệp chính sách còn chưa hiệu quả;
-   Các chính sách này thường được thiết kế theo phương thức “một can thiệp phù hợp cho tất cả”, trong khi đặc điểm mỗi vùng miền, địa phương, dân tộc là rất khác biệt. Điều này không chỉ làm giảm sự phù hợp của chính sách, mà còn hạn chế tính sáng tạo, hiệu quả thực hiện chính sách ở cấp địa phương.
-    Hầu hết các chính sách trong thời gian qua đều có một điểm chung là hỗ trợ mang tính “cho không” mà không theo hướng “có điều kiện”, nghĩa là người nghèo, hộ, xã nghèo phải có trách nhiệm như thế nào khi thụ hưởng chính sách của Nhà nước. Ví dụ, chính sách giảm nghèo chưa được tiếp cận đúng, vì không quy định điều kiện đối với đối tượng thụ hưởng, dẫn đến tình trạng trông chờ, ỷ lại vào chính sách của Nhà nước, vì thế chính sách không tạo ra động lực phát triển.
-   Các chính sách về quyền văn hóa của người DTTS được thiết kế thiếu sự gắn kết với các chính sách của các ngành khác như kinh tế, y tế… dẫn tới phân tán, chồng chéo trong chính sách, không thể thực hiện việc điều phối chung để đạt được hiệu quả một cách toàn diện và tổng thể[10]. Một số chính sách cho vùng đồng bào DTTS nói chung chưa được thiết kế, xây dựng và thực hiện phù hợp với văn hóa, phong tục, tập quán, ngôn ngữ của đồng bào, do vậy hiệu quả chưa cao. Trong khi các thông tin, cơ sở dữ liệu về các DTTS Việt Nam - nhất là thông tin liên quan đến trình độ phát triển của các DTTS - còn chưa đầy đủ, toàn diện và thiếu cập nhật[11].
-   Bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một, bị đồng hóa, nhất là ở các cộng đồng vùng nghèo dưới tác động của đời sống kinh tế - xã hội hiện đại, hiện tượng xâm thực văn hóa, xâm nhập và biến đổi tôn giáo - tín ngưỡng diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhiều thiết chế tổ chức, quản lý làng, bản truyền thống gắn với các cộng đồng không gian văn hóa bị phá vỡ (hoặc phá bỏ trong quá trình phát triển).
-   Các thiết chế văn hóa cơ sở cho vùng DTTS cũng đang hết sức nghèo nàn. Tỷ lệ xã vùng DTTS không có nhà văn hóa lên đến 53,3%; chỉ có 62,4% số thôn, bản có nhà văn hóa/nhà sinh hoạt cộng đồng trong tổng số 48.494 thôn, bản vùng DTTS, tỷ lệ thôn, bản có loa truyền thanh cũng chỉ đạt 56,8%. Khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là những nơi đang gặp khó khăn nhất về thiết chế văn hóa cơ sở. Sự mai một và mất dần bản sắc văn hóa truyền thống các DTTS (pha tạp, biến đổi, biến thái văn hóa, mất dần ngôn ngữ mẹ đẻ…) đang diễn ra ở nhiều chiều cạnh khác nhau, nhất là đối với 16 tộc người thiểu số rất ít người gồm: Si La, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo (dưới 1.000 người), Cống, Mảng, Bố Y, Lô Lô, Cờ Lao, Ngái (dưới 5.000 người), Lự, Pà Thẻn, Chứt, La Ha và La Hủ (dưới 10.000 người). Từ ngôn ngữ, các vật dụng trong cuộc sống hàng ngày, đến kiến trúc nhà ở, các lễ nghi trong đời sống xã hội (hôn nhân, tang ma, thờ cúng...) mang tính bản sắc truyền thống và khác biệt của từng tộc người ít còn được duy trì, thay vào đó là nét văn hóa của người đa số. Hệ luỵ từ xu hướng này sẽ để lại những hậu quả khó lường, nó không đơn thuần chỉ là mai một bản sắc văn hoá truyền thống tộc người, mà kết hợp với các tác động kinh tế - xã hội khác có thể dẫn sự biến mất của một số tộc người thiểu số trong tương lai[12].
4. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam  
Thứ nhất, Nhà nước cần tiếp tục thực hiện các chính sách văn hóa đặc thù đối với đồng bào DTTS, tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới. Đặc biệt với việc bảo tồn văn hóa các DTTS, cần tiếp tục thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm đã được đưa ra trong Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020”, đó là:
- Bảo tồn khẩn cấp văn hóa các DTTS rất ít người (có số dân dưới 10.000 người), các DTTS tại các khu vực tái định cư dự án thủy điện, liên thông, kết nối toàn diện với các chương trình, dự án có liên quan.
- Xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa vùng đồng bào DTTS. Gắn kết chặt chẽ những hoạt động xây dựng đời sống văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng khu vực, từng vùng, từng dân tộc, tôn giáo.
- Đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các DTTS kết hợp với các chương trình phát triển kinh tế, phát triển nghề thủ công truyền thống, du lịch cộng đồng kết hợp với xóa đói giảm nghèo.
- Phát triển và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng các sản phẩm văn hóa, thông tin phù hợp. Đẩy mạnh và phát huy hiệu quả công cụ phát thanh, truyền hình phù hợp vùng đồng bào DTTS.
- Xây dựng đồng bộ và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa cộng đồng, thực sự phát huy vai trò của cộng đồng trong tổ chức các hoạt động cộng đồng phát huy hiệu quả thực sự của các thiết chế văn hóa.
- Tăng cường các hoạt động giao lưu văn hóa cấp địa phương, vùng, miền và toàn quốc.
- Ban hành bộ chỉ số về phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam.
Thứ hai, ưu tiên đầu tư cho việc giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống các DTTS; đồng thời sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào DTTS và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy. Sưu tầm, phục hồi và phát triển một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ thất truyền.
Thứ ba, xây dựng các chính sách khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng các DTTS Việt Nam; xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong các DTTS, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào DTTS, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa là tiền đề để người DTTS thụ hưởng quyền văn hóa. Kết hợp với các chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình; tăng cường các hoạt động văn hóa, thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng các DTTS; làm tốt công tác nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hóa của các dân tộc. Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở và các chương trình giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo, nhất là hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp.   
Thứ năm, tăng cường các chương trình giáo dục song ngữ cho trẻ em DTTS và đào tạo ngôn ngữ địa phương cho giáo viên người Kinh tại các vùng DTTS, tuyển dụng giáo viên DTTS nhiều hơn, cho phép ngôn ngữ DTTS được dạy và được sử dụng như một phương tiện giảng dạy trong các trường học, hỗ trợ các chương trình giáo dục về văn hóa của các nhóm DTTS.
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho đồng bào DTTS, khắc phục các rào cản tập quán, tâm lý, nhất là các dân tộc có điều kiện khó khăn về tầm quan trọng của việc tiếp cận giáo dục trong xóa đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng chương trình truyền thông phù hợp với các yếu tố về văn hóa, giới, lứa tuổi và dân tộc. Phát triển các mô hình truyền thông hiệu quả tại cộng đồng; mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động truyền thông để nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và người dân về giáo dục trong xóa đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường phổ biến pháp luật, thông tin về các cơ chế chính sách dân tộc nói chung và chính sách liên quan đến giáo dục cho vùng DTTS nói riêng.
Thứ bảy, tổ chức các hoạt động văn hoá như lễ hội, dịch vụ vui chơi giải trí, xây dựng tủ sách, thành lập các câu lạc bộ, tạo môi trường để người DTTS có cơ hội hưởng thụ đầy đủ các quyền văn hoá. Loại bỏ mọi tập tục lạc hậu, gắn tuyên truyền pháp luật với phê phán những thói quen xấu, tư tưởng trọng nam khinh nữ; đề cao, tôn vinh truyền thống tốt đẹp của người DTTS.
Thứ tám, đồng bào DTTS cũng cần chủ động trong việc thực hiện quyền văn hóa của mình như tích cực tham gia vào quá trình xây dựng các chương trình bảo tồn, phát triển các truyền thống văn hóa dân tộc; đào tạo cho các thế hệ sau những giá trị riêng của dân tộc mình và xây dựng ý thức bảo tồn chúng trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập…
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.        Hiến pháp năm 2013.
2.        Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
3.        Luật Giáo dục năm 2005.
4.        Luật Di sản văn hóa năm 2013.
5.        Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” năm 1998.
6.        Nghị quyết số 33-NQ/TW khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” năm 2014.
7.        Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội: Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2011.
8.        Bộ Ngoại giao, Sách trắng với chủ đề Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam, 2018 http://pbgdpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nhan-quyen.aspx?ItemID=5
9.        Bộ Ngoại giao, Báo cáo quốc gia theo Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên hp quốc
10.    General Assembly, Report of the Special Rapporteur in the field of cultural rights, Farida Shaheed, 2015
11.    PCIJ, Advisory Opinion on Interpretation of the Convention Between Greece and Bulgaria Respecting Reciprocal Emigration, Signed at Neuilly-Sur-Seine on November 27th, 1919 https://www.icj-cij.org/files/permanent-court-of-international-justice/serie_B/B_17/01_Communautes_greco bulgares_Avis_consultatif.pdf
13.    Human Rights Committee, Concluding observations on the third periodic report of Viet Nam, 28 March 2019, https://tbinternet.ohchr.org/Treaties/CCPR/Shared%20Documents/VNM/CCPR_C_VNM_CO_3_34488_E.pdf
14.    OHCHR, Minority Rights: International Standards and Guidance for Implementation https://www.ohchr.org/Documents/Publications/MinorityRights_en.pdf
15.    Fribourg Declaration on cultural Rights
 

 


[2] Xem các Điều từ 13-15 Công ước về các Quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Cong-uoc-quoc-te-ve-quyen-dan-su-va-chinh-tri-270274.aspx.
[4] Xem Ủy ban về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Nhận định chung 21 tại https://tbinternet.ohchr.org/_layouts/15/treatybodyexternal/Download.aspx?symbolno=E%2fC.12%2fGC%2f21&Lang=en.
[5] Sách trắng về quyền con người năm 2018, tr. 43-44
[6] Điều 16 Hiến pháp năm 2013.
[7] Sách trắng về quyền con người năm 2018, tr.43-44
[8] Phê duyệt Đề án "Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay"; Website: https://bvhttdl.gov.vn/phe-duyet-de-an-bao-ton-phat-huy-trang-phuc-truyen-thong-cac-dan-toc-thieu-so-viet-nam-trong-giai-doan-hien-nay-20190223064433559.htm
[10] Ví dụ giảm nghèo sẽ là một nhân tố quan trọng gắn với mục tiêu tăng cơ hội đến trường cho học sinh, giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ, trẻ em; phát triển môi trường bền vững và cũng là nhân tố tích cực thúc đẩy bình đẳng giới... Tuy nhiên mỗi lĩnh vực trên lại được quy định bởi những chính sách riêng rẽ, ít kết nối với nhau
[11] Cho đến thời điểm năm 2015 (trước khi có cuộc Tổng điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS), chúng ta vẫn chưa biết chắc chắn con số nghèo trong tổng thể và từng DTTS ở Việt Nam như thế nào? Trình độ phát triển của từng dân tộc ra sao? Kể các các con số thống kế miêu tả về thực trạng y tế, giáo dục, bình đẳng giới, HIV/AIDS, môi trường của vùng và các DTTS cũng hết sức rời rạc, không đầy đủ, thiếu cập nhật thường xuyên
[12] Tổng quan thực trạng 53 DTTS, Tiểu Dự án Hỗ trợ Giảm nghèo PRPP - Ủy ban Dân tộc do UNDP và Irish Aid tài trợ nghiên cứu.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 20 (396), tháng 10/2019.)


Ý kiến bạn đọc