Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: một số giải pháp đẩy nhanh tốc độ

01/09/2004

Đặng Văn Thanh, PGS.TS, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách Quốc Hội

Nhận thức đúng về cổ phần hoá
Thực tế , một bộ phận không nhỏ trong cán bộ, công chức, người lao động trong doanh nghiệp và nhân dân chưa hiểu thấu đáo thực chất và lợi ích của quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần, chưa phân biệt rõ sự khác biệt giữa cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với quá trình tư nhân hoá (chuyển từ sở hữu nhà nước thành sở hữu tư nhân). Do sợ “chệch hướng” nên không ít cán bộ, kể cả một số cán bộ lãnh đạo còn có tư tưởng chần chừ, do dự khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Tiến hành cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, tất yếu phải thay đổi nhiệm vụ và theo nó là quyền lợi của một số người đang trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý, điều hành doanh nghiệp. Do vậy, đã và sẽ có một số cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp chưa hoàn toàn đồng tình, thậm chí còn có hành vi, việc làm gây khó khăn, cản trở quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó việc tuyên truyền, giáo dục và đấu tranh với tư tưởng này chưa được đặt ra một cách nghiêm khắc và chưa có biện pháp hữu hiệu, đủ mạnh để khắc phục. Đối với người lao động trong doanh nghiệp, lợi ích cao nhất của họ là việc làm và thu nhập. Hiệu quả lao động của công ty cổ phần chắc chắn sẽ cao hơn khi còn là doanh nghiệp nhà nước, và vì vậy, việc làm và thu nhập của người lao động sẽ được bảo đảm hơn. Do đó, cần khẳng định không có lực cản từ phía những người lao động. Nhưng ở nhiều nơi, công tác tuyên truyền, vận động còn yếu, chưa giúp cho người lao động nhận thức đúng và hiểu rõ được lợi ích của cổ phần hoá để từ đó ủng hộ và tích cực tham gia cổ phần hoá doanh nghiệp. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không phải là tư nhân hoá : Để có nhận thức đúng và thống nhất trong hành động, cần làm tốt và tích cực hơn công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên trong các cơ quan nhà nước, người lao động trong các doanh nghiệp và nhân dân hiểu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Cần phân biệt rõ ràng rằng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không phải là quá trình tư nhân hoá. Đó là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp có một chủ sở hữu (là Nhà nước) thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu (sở hữu hỗn hợp). Cũng như các hợp tác xã, công ty cổ phần là một loại hình sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, một hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa xã hội. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là biện pháp để tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Cổ phần hoá là để huy động vốn trong doanh nghiệp và ngoài xã hội, đồng thời tạo ra phương thức quản lý mới. Phương thức quản lý mới tạo ra những người chủ thực sự của công ty cổ phần là các cổ đông. Cổ đông có quyền quyết định hết thảy các vấn đề quan trọng nhất của công ty, như phê chuẩn chiến lược và kế hoạch phát triển, điều lệ hoạt động, bộ máy quản lý và phương án phân phối lợi nhuận sau thuế của công ty cổ phần... Phương thức quản lý mới hướng tới kinhdoanh hiệu quả: Toàn bộ hoạt động của công ty cổ phần (kể cả hoạt động của Hội đồng quản trị) đều chịu sự giám sát trực tiếp của cổ đông và một tổ chức chuyên trách do cổ đông cử ra là giám sát. Khi người lao động có sở hữu cổ phần, họ trở thành người chủ doanh nghiệp.  Thu nhập tiền lương và thu nhập cổ tức của họ phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của công ty cổ phần, trong đó có sự đóng góp của họ. Cấu trúc quản lý của công ty cổ phần sẽ tạo ra phương thức quản lý mới, bên trong thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, tạo ra sự gắn bó giữa nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích, giữa chủ sở hữu, đại diện chủ sở hữu, giám đốc điều hành và tập thể người lao động. Phương thức quản lý đó chính là yếu tố quan trọng bảo đảm cho công ty cổ phần kinh doanh có hiệu quả hơn. Chỉ có thể trên cơ sở nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, lợi ích của các cổ đông, lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp, lợi ích của nhà nước và của xã hội mới được đảm bảo bền vững. Đây là mục đích cuối cùng của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Tạo dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế, tổ chức
 Pháp luật về cổ phần hoá DNNN: Từ năm 1992 đến 5/1996 hình thức văn bản pháp lý cao nhất của nhà nước ta về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Đến 7/5/1996, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Một số định hướng chính sách chưa được thể chế hoá. Cần thấy rằng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tất yếu sẽ có một bộ phận tài sản Nhà nước phải chuyển hoá thành sở hữu của các thành phần kinh tế khác. Do vậy, cần sớm có luật về cổ phần hoá làm căn cứ pháp lý cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên diện rộng. Trước mắt, có thể nghiên cứu soạn thảo một pháp lệnh trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành. Trách nhiệm chủ động của chính quyền thực hiện chức năng người đại diện chủ sở hữu: Các cấp chính quyền có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn, tổ chức triển khai và quyết định doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Từ khi có chủ trương cổ phần hoá đến nay, nhà nước chủ yếu dựa vào sự tự nguyện của doanh nghiệp, của các ngành, các cấp ... Là một công việc mới nên việc tự nguyện đăng ký là cần thiết trong 1ư2 năm đầu để người lao động và các nhà đầu tư, các nhà quản lý có điều kiện tìm hiểu và làm quen với mô hình quản lý mới. Nhưng chỉ dựa vào sự tự nguyện thì không thể thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá. Nhà nước là chủ sở hữu doanh nghiệp. Nhà nước là người chủ động quyết định chỉ tiêu doanh nghiệp nhà nước triển khai cổ phần hoá. Bộ trưởng các Bộ, Chủ tịch ủ y ban nhân dân các tỉnh, thành phố là người được Chính phủ phân công, phân cấp phải lựa chọn và tổ chức thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp trong phạm vi quản lý và phạm vi trách nhiệm của mình. Những năm qua, các cấp chính quyền chưa sử dụng đúng thẩm quyền đại diện chủ sở hữu của mình, chưa tích cực chủ động lựa chọn và chưa giao nhiệm vụ cổ phần hoá cho các doanh nghiệp nhà nước như một chỉ tiêu pháp lệnh. Một số nơi, chính quyền chưa thực sự quan tâm đến công tác cổ phần hoá, còn khoán trắng cho Ban chỉ đạo, thậm chí nhiều nơi còn chậm thành lập ban chỉ đạo. Ban chỉ đạo cổ phần hoá các cấp, thực chất chỉ là cơ quan tư vấn cho   chính quyền trong việc lập chương trình, lựa chọn, đôn đốc kiểm tra quá trình cổ phần hoá, không có thẩm quyền quyết định các vấn đề cụ thể. Thành phần của Ban chủ yếu là kiêm nhiệm. Nhiệm vụ, chức năng, mối quan hệ giữa Ban với các ngành, các cấp chưa được xác định cụ thể. Tóm lại, hiệu lực của Ban này đối với tiến trình cổ phần hoá còn rất hạn chế. Thực tế chứng mình rằng, nơi nào cấp uỷ,  thủ trưởng đơn vị thực sự quan tâm, đề cao trách nhiệm thì nơi đó triển khai cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tương đối tốt. Ngược lại, nếu cấp uỷ, thủ trưởng đơn vị ít quan tâm, không kiên quyết thì đơn vị đó triển khai chậm trễ, thậm chí không tiến triển được. Cần đề cao trách nhiệm và quyền hạn của chính quyền các cấp, lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện cổ phần hoá. Hàng năm, căn cứ phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2002ư2005, Chính phủ xác định chỉ tiêu doanh nghiệp nhà nước hoàn thành cổ phẩn hoá để giao nhiệm vụ cụ thể cho từng Bộ, từng địa phương và từng Tổng Công ty 91, Bộ trưởng các Bộ quản lý ngành, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Hội đồng quản trị các Tổng công ty 91 chịu trách nhiệm trước Chính phủ lựa chọn, quyết định và tổ chức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong phạm vi quản lý của mình. Mỗi doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá phải xác định rõ thời gian bắt đầu, thời gian hoàn thành chuyển thành công ty cổ phần.Tổng giám đốc, Giám đốc các doanh nghiệp nhà nước được lựa chọn cổ phần hoá có trách nhiệm triển khai đúng kế hoạch, tiến độ và chính sách Nhà nước đã quy định. Các cơ quan chức năng như Bộ Tài chính, Bộ quản lý ngành, Bộ Lao động ư Thương binh và xã hội... có trách nhiệm hướng dẫn và phối hợp với các Bộ, các địa phương, các Tổng Công ty 91 thực hiện một số nhiệm vụ có liên quan đến quá trình cổ phần hoá như thẩm định giá trị doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xây dựng đề án cổ phần hoá và điều lệ hoạt động của Công ty cổ phần, sắp xếp và xử lý lao động... Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước các cấp cần bố trí đủ số thành viên chuyên trách, đủ sức giúp cho các Bộ, các địa phương trong việc lập chương trình, kế hoạch, chỉ đạo đôn đốc các ngành, các cấp, các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Để có căn cứ cho việc lựa chọn và tổ chức cổ phần hoá, các Bộ, các địa phương, các Tổng công ty đã tập trung chỉ đạo và hoàn thành tốt việc đánh giá phân loại và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước. Kết quả phân loại đã xác định những doanh nghiệp nhà nước chưa cổ phần hoá, những doanh nghiệp nhà nước được phép cổ phần hoá; trong đó có phân loại rõ loại doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần chi phối, loại doanh nghiệp nhà nước tham gia cổ phần ở mức thấp, loại doanh nghiệp nhà nước không nhất thiết tham gia cổ phần.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách
 Xét trên toàn bộ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua, cơ chế chính sách của nhà nước chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu phong phú và đa dạng của quá trình cổ phần hoá. Những khó khăn, vướng mắc chậm được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, nổi bật là các vấn đề sau đây: ư Về đối tượng bán cổ phần và quyền hạn chế mua cổ phần Nước ta đã có hàng ngàn dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Hình thức đầu tư trực tiếp đã có rất nhiều dự án 100% hoặc đại bộ phận vốn nước ngoài. Nhưng trong nhiều năm, chúng ta chưa có quy chế bán cổ phần cho người nước ngoài để tạo khuôn khổ pháp lý cho họ được trực tiếp đầu tư vào công ty cổ phần. Điều này đã hạn chế đến huy động vốn, công nghệ và năng lực quản lý của họ, nhất là những nhà đầu tư chiến lược. Về quyền mua cổ phần: giai đoạn trước năm 2002, Nhà nước khống chế quyền mua của mỗi cá nhân không quá 5%, mỗi pháp  nhân không quá 10% tổng số cổ phần phát hành. Điều này là phù hợp với lĩnh vực nhà nước cần nắm cổ phần chi phối và những nơi số người mua cổ phần nhiều. Nhưng đối với lĩnh vực nhà nước không giữ cổ phần chi phối, thậm chí có lĩnh vực nhà nước không cần tham gia cổ phần, hoặc tại các doanh nghiệp kém lợi thế, người mua không nhiều mà khống chế cổ phần như trên thì không thúc đẩy được cổ phần hoá, hạn chế việc huy động vốn. Người mua cổ phần chủ yếu mới là những người lao động trong doanh nghiệp, các đối tượng mua cổ phần ngoài doanh nghiệp còn thấp, do đó chưa huy động vốn nhàn rỗi của xã hội. Nghị định 64/2002/NĐưCP đã mở rộng đối tượng và bỏ quy định về giới hạn khi mua cổ phần lần đầu; các chủ nợ của doanh nghiệp có thể chuyển nợ thành vốn góp cổ phần; quy định người lao động giữ cổ phần được mua theo giá ưu đãi trong một thời gian nhất định; dành tối thiểu 30% số cổ phần còn lại (sau khi trừ số cổ phần Nhà nước cần nắm giữ và số bán theo giá ưu đãi) để bán cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp, trong đó ưu tiên cho nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, vốn và kinh nghiệm quản lý theo phương thức đấu thầu thông qua tổ chức tài chính trung gian hoặc doanh nghiệp tự tổ chức đấu thầu; không khống chế tỷ lệ giá trị ưu đãi bán cổ phần cho người lao động mà chỉ giới hạn số cổ phần cho 1 năm công tác và tổng giá trị ưu đãi không vượt quá giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp sau khi trừ giá trị cổ phần Nhà nước nắm giữ. ư Về xác định giá trị doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá Trước hết là quy trình xác định giá trị doanh nghiệp còn phiền hà, phân qua 3 giai đoạn: Hội đồng thẩm định của doanh nghiệp ư Kiểm toán ư Hội đồng thẩm định của Nhà nước, sau đó cơ quan thẩm quyền mới công bố giá trị. Giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá phải là giá trị thực tế mà người mua, người bán đều chấp nhận được, nhưng tổ chức kiểm toán chủ yếu chỉ dựa vào chứng từ, sổ kế toán để xác định. Do đó, hầu như các kết quả kiểm toán không sử dụng được vào việc công bố giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá. Điều này một mặt làm chậm quá trình cổ phần hoá, mặt khác làm tăng chi phí của doanh nghiệp. Theo cơ chế thị trường, việc định giá thực chất là quá trình cùng trao đổi, thảo thuận giữa người mua, người bán, chứ không thể người mua (doanh nghiệp) quy định trước mà người bán (Nhà nước) định sau như đã thực hiện trong các năm qua. Người bán thì muốn bán toàn bộ tài sản hiện có, người mua chủ yếu tính đến nhu cầu sử dụng tài sản trong tương lai. Vì vậy, tất yếu có mâu thuẫn giữa người mua và người bán. Sẽ có một bộ phận giá trị (xét theo nhu cầu sử dụng), người mua không chấp nhận (tài sản không cần dùng kém mất phẩm chất) cần phải loại trừ ra khỏi giá trị doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Lẽ ra phải có quy chế để bên mua (doanh nghiệp), bên bán (đại diện cho Nhà nước) đàm phán về giá cho tới khi hai bên có thể thoả thuận được. Do chưa chú ý đúng mức đến quyền lợi của người mua nên có những trường hợp Nhà nước công bố giá nhưng không bán cổ phần được, quá trình cổ phần hoá bị bế tắc, hoặc quá trình định giá phải kéo dài. Phương pháp xác định giá trị lợi thế của doanh nghiệp Đây là việc làm cần thiết để bảo đảm công bằng về giá nhưng về phương pháp tính còn hạn chế. Khi xác định tỉ suất lợi nhuận của 3 năm liền kề với thời điểm cổ phần hoá là dựa trên vốn Nhà nước hiện hành. Nhưng khi xác  định lợi thế thì lại dựa trên số vốn Nhà nước đã được đánh giá lại. Sự không đồng nhất này làm thiệt hại cho người mua cổ phần nếu như vốn Nhà nước theo giá đánh lại tăng lên; làm thiệt hại cho nhà nước nếu vốn Nhà nước theo giá đánh lại giảm đi. Lợi thế được căn cứ vào kết quả kinh doanh thực tế của doanh nghiệp, nhưng tương lai của doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng của nhiều sự biến động khác, đặc biệt là càng cạnh tranh cao thì giá trị siêu ngạch do lợi thế đem lại cũng giảm đi. Do đó tính 100% lợi thế vào giá trị doanh nghiệp để bán thì người mua cổ phần có thể bị thiệt thòi. Chế độ ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá Nhìn chung, người lao động tại các doanh nghiệp nhà nước còn nghèo. Vì vậy, để họ được sở hữu một số cổ phần, tạo quyền làm chủ thực sự cho người lao động là cần thiết. Tuy nhiên vấn đề này còn một số tồn tại. Nhà nước duy trì hai hình thức: Cấp quyền sử dụng cổ phần (quyền sở hữu vẫn là của Nhà nước) và mua chịu cổ phiếu trong 5 năm với lãi suất 5%/năm. Việc quản lý, thu hồi các cổ phiếu rất khó khăn. Hơn nữa cổ phiếu không được tự do chuyển nhượng nên không thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, không thật hấp dẫn đối với người sở hữu cổ phần này. Số cổ phần cấp cho người lao động hưởng cổ tức khống chế 6 tháng lương cấp bậc và chức vụ là quá thấp so với mức khống chế tối đa 10% giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (6 tháng lương cấp bậc, chức vụ chỉ chiếm khoảng 2.7% vốn nhà nước tại doanh nghiệp). Do đó rất ít trường hợp doanh nghiệp được hưởng ưu đãi tới 10% như Nhà nước đã quy định. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều này đem lại việc làm và thu nhập cho người lao động nhiều hơn khi chưa cổ phần hoá. Lợi ích đó mới cơ bản, lâu dài chứ không phải ở chỗ người lao động được hưởng ưu đãi nhiều hay ít. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm huy động vốn đầu tư và phát triển, nên nếu ưu đãi quá nhiều sẽ mâu thuẫn với mục tiêu này. Cần sớm hoàn thiện các cơ chế, chính sách để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá. Nghị định số 64ư2002/NĐưCP ngày 19/6/2002 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và nhiều cơ chế, chính sách về tài chính, lao động tiền lương, tổ chức quản lý đã tháo gỡ khá nhiều vướng mắc và có những tiến bộ đáng kể. Trong quá trình thực hiện, phát hiện những quy định chưa phù hợp với thực tế, các doanh nghiệp, các cấp, các ngành cần báo cáo kịp thời cho Thủ tướng Chính phủ, các Bộ chức năng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nhằm không ngừng hoàn thiện chính sách cổ phần hoá. Chính phủ cần nghiên cứu ban hành quy chế bán cổ phần cho người nước ngoài nhằm thu hút và khuyến khích người nước ngoài đầu tư vào công ty cổ phần ở Việt Nam. Ngoài ra cần khẩn trương ban hành các cơ chế, chính sách quản lý phần vốn của Nhà nước ở các công ty sau cổ phần hoá. Có cơ chế và phương thức sử dụng một cách hiệu quả quỹ hỗ trợ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để đáp ứng yêu cầu triển khai cổ phần hoá trên diện rộng.
Hoàn thiện quy trình tổ chức triển khai cổ phần hoá
Thời gian qua, quy trình cổ phần hoá còn rườm rà, phức tạp. Sự phân công, phân cấp giữa các ngành, địa phương và doanh nghiệp  chưa rõ ràng, còn chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, có những công việc không cần thiết phải phân chia thành nhiều công đoạn, nhiều tổ chức tham gia. Mỗi việc hay mỗi công đoạn do một tổ chức đảm nhiệm, nhưng không xác định thời gian tối đa phải hoàn thành. Do vậy, hầu như mọi công việc đều bị kéo dài quá mức cần thiết.Việc hướng dẫn nghiệp vụ cho triển khai cổ phần hoá chưa được kịp thời và chu đáo. Hầu như cán bộ các cấp khi triển khai công việc đều lúng túng, nhất là trong việc xây dựng đề án cổ phần hoá, điều lệ thành lập công ty cổ phần, cách thức thẩm định giá trị doanh nghiệp, vấn đề xử lý lao động, xử lý tài sản, công nợ của doanh nghiệp. Cần khẩn trương sửa đổi và hoàn thiện quy trình cổ phần hoá. Quy trình cổ phần hoá phải thoả mãn các yêu cầu sau đây: ư Xác định rõ những công việc cần thiết phải làm để cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thời gian phải hoàn thành của mỗi công việc và loại bỏ những công việc không cần thiết trong quy định hiện hành. ư Quy định rõ cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp khi triển khai từng công việc cổ phần hoá. ư Thời gian cổ phần hoá mỗi doanh nghiệp nhà nước tối đa không quá 6 tháng. Phổ biến các mẫu đề án cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cho các ngành, các cấp, các doanh nghiệp có tài liệu nghiên cứu để tự xây dựng được đề án và điều lệ hoạt động của doanh nghiệp mình. Căn cứ vào tình hình cụ thể, mỗi doanh nghiệp nhà nước cần xây dựng một kế hoạch chi tiết các bước triển khai cổ phần hoá báo cáo cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp và các cơ quan có liên quan để có biện pháp phối hợp.
Tổng kết rút ra bài học cần thiết
 Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là một lĩnh vực công tác rất mới mẻ đối với nước ta. Quá trình triển khai cổ phần hoá phải xử lý nhiều vấn đề kinh tế, xã hội và nghiệp vụ cụ thể. Phải vừa học, vừa làm, vừa từng bước bổ sung để hoàn chỉnh dần. Cần thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết ở mỗi ngành, mỗi địa phương để đánh giá mặt mạnh, mặt yếu, nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục trong cả nước. Thông qua sơ kết, tổng kết còn giúp cho các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp học tập lẫn nhau. Vấn đề này cần được tăng cường và tiến hành thường xuyên hơn.
Tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp
 Thực tế, trong thời gian qua còn có sự phân biệt đáng kể giữa doanh nghiệp nhà nước với các loại hình doanh nghiệp khác, trong đó có công ty cổ phần. Doanh nghiệp nhà nước thường được ưu đãi hơn về quyền sử dụng đất, được vay các Ngân hàng thương mại quốc doanh không phải thế chấp, với lãi suất ưu đãi, được khoanh nợ, xoá nợ khi gặp rủi ro, được xét giảm, miễn thuế dễ dàng... Khi chuyển sang hoạt động theo Luật Công ty, thì công ty cổ phần không được hưởng “ân huệ ” trên, đó là sự “thiệt thòi” và làm giảm khả năng cạnh tranh của các công ty này. Khẩn trương nghiên cứu xây dựng và ban hành một cơ chế đồng nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp, xoá bỏ sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác, đảm bảo cho các doanh nghiệp được bình đẳng trong cạnh tranh.  
Mở rộng và nâng cao chất lượng của thị trường chứng khoán
 Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước và thị trường chứng khoán có mối liên hệ gắn bó với nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển.Trong những năm qua, cổ phần hoá chưa làm tốt nên cũng chưa có tiền đề hình thành và phát triển nhanh thị trường chứng khoán. Ngược lại, việc hoạt động kém sôi động, kém hiệu quả của thị trường vốn này, đã không tạo ra sự hấp dẫn cho những người đầu tư cổ phần. Cần khẩn trương mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán, đưa vào hoạt động Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và một số thành phố lớn tạo điều kiện thuận lợi cho các cổ đông được mua, bán, chuyển nhượng cổ phiếu. Đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 9 (khoá IX), nhất là cổ phần hoá mạnh hơn nữa là góp phần quan trọng để phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm thực hiện thắng lợi đường lối phát triển kinh tế mà Đại hội IX của Đảng đã đề ra. Để thực hiện thành công chúng ta cần phải có những đổi mới cơ bản về quan điểm, chính sách và có những bước đi thích hợp để thực hiện cổ phần hoá phù hợp mỗi loại hình, đặc điểm sản xuất kinh doanh và quy mô của doanh nghiệp./.