Thực trạng lạm dụng rượu, bia và nhu cầu ban hành Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia

01/12/2016

VŨ VĂN HUÂN

Viện Nghiên cứu Lập pháp

Việt Nam là một trong số ít quốc gia đang có xu hướng gia tăng nhanh về mức tiêu thụ rượu, bia và đồ uống có cồn/bình quân đầu người, trong khi mức tiêu thụ của toàn thế giới trong thập kỷ qua hầu như không thay đổi[1]. Theo thống kê của Cục Y tế dự phòng - Bộ Y tế, mức độ tiêu thụ rượu, bia của người Việt Nam trong 10 năm trở lại đây đã tăng gấp 2 lần. Lạm dụng rượu, bia tại Việt Nam đã và đang ở mức báo động, gây ra những tác hại về sức khỏe và nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng. Người trẻ tuổi đang sử dụng rượu, bia ở mức rất cao, với 80% nam giới và 36,5% nữ giới trong độ tuổi 14-25[2]. Vấn đề nàysẽ ngày càng nghiêm trọng nếu Nhà nước khôngkịp thời điều chỉnh chính sách, pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia.  
Untitled_7.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Tiêu dùng rượu, bia đang ngày càng gia tăng, đặc biệt ở giới trẻ
Chỉ trong 5 năm (2011-2015), tỷ lệ sử dụng rượu, bia ở nam giới(độ tuổi 25-64 tuổi) đã tăng từ 69,6% lên 80,3% và ở nữ giới là từ 5,6% lên 11,2%. Trong số nam giới sử dụng rượu, bia năm 2015, có 44,2% sử dụng rượu, bia ở mức nguy hại và 47,9% điều khiển phương tiện cơ giới sau khi sử dụng rượu, bia[3]. Ở tuổi vị thành niên (13-17 tuổi), có một phần ba nam giới (33,2%) và gần một phần năm nữ giới (17,6%) có sử dụng rượu, bia. Trong số đó, một nửa số em nam và một phần ba số em nữ uống lần đầu trước 14 tuổi[4]
Tỷ lệ người trưởng thành (25-64) có uống rượu, bia tính theo tháng (2010-2015)[5].
1_29.jpg
Từ 2005 đến 2010, mức tiêu thụ rượu, bia bình quân đầu người ở Việt Nam từ 15 tuổi trở lên tăng gấp đôi, từ 3,8 lít/người lên 6,6 lít/người. Riêng nam giới sử dụng rượu, bia, mức tiêu thụ trung bình là 27,4 lít cồn nguyên chất/người/năm[6].
 
 2_24.jpg     
Tỷ lệ tiêu thụ số lít cồn nguyên chất/người/năm Việt Nam ở mức rất cao, xếp thứ hai trong các nước Đông Nam Á/Tây Thái Bình Dương; xếp thứ 10 châu Á (sau Hàn Quốc, Ấn Độ, Nepal, Thái Lan…) và thứ 29 thế giới[7].
2.  Lạm dụng rượu, bia gây nên những gánh nặng y tế và các vấn đề xã hội
Theo nghiên cứu gánh nặng bệnh tật toàn cầu, rượu, bia là yếu tố nguy cơ xếp thứ 5 trong 15 nguy cơ sức khỏe hàng đầu tại Việt Nam (WHO[8], 2012). Rượu, bia là nguyên nhân gián tiếp của 200 loại bệnh tật, chấn thương và là nguyên nhân trực tiếp của ít nhất 30 bệnh (nằm trong danh mục phân loại bệnh tật quốc tế ICD10). Sử dụng rượu, bia gây ra 5,7% tổng số ca tử vong, 4,7% tổng gánh nặng bệnh tật tính bằng số năm sống mất đi do bị bệnh (DALY) của Việt Nam năm 2010. Khoảng 8,7% nam và 0,9% nữ tuổi từ 15 trở lên gặp các rối loạn liên quan đến sử dụng rượu[9].
 
3_14.jpg
 
Nguồn: Báo cáo thực trạng rượu, bia toàn cầu năm 2004 (WHO)
Rượu, bia có liên quan với 36,2% các trường hợp tai nạn giao thông ở nam giới và 0,7% các trường hợp ở nữ giới[10]. Năm 2012, 71,7% trường hợp tử vong do xơ gan ở nam và 36,2% trường hợp tử vong do tai nạn giao thông ở nam là do sử dụng rượu bia[11]. Thiệt hại kinh tế do tai nạn giao thông liên quan tới rượu, bia ước tính gần 1 tỷ đô la Mỹ vào năm 2010[12].
Theo nghiên cứu của WHO, từ 7/2009 - 10/2010, trên 18.412 nạn nhân tai nạn giao thông nhập viện:
-   36% người đi xe máy có nồng độ cồn trong máu cao hơn mức cho phép (50 mg/dl),
-   66,8% người lái xe ô tô có nồng độ cồn trong máu cao hơn mức cho phép (0 mg/dl).
Kết quả của cuộc điều tra quốc gia vị thành niên Việt Nam năm 2009 cho thấy, 20,8% nam vị thành niên đã lái xe sau uống rượu, bia dẫn đến các chấn thương phải nghỉ học hoặc nghỉ lao động từ 1 tuần trở lên.
Rượu, bia cũng là nguyên nhân lớn nhất gây ra 30% các vụ gây rối trật tự xã hội và 33,7% các vụ bạo lực gia đình ở Việt Nam[13]. Trẻ em Việt Nam cũng đang là nạn nhân trong việc lạm dụng rượu, bia của người lớn như: bị xúc phạm, nhục mạ, mắng chửi (11,1%), bị bỏ mặc, thiếu sự chăm sóc, bảo vệ của người lớn (6,5%), phải chứng kiến bạo lực nghiêm trọng trong gia đình (6,1%), bị đánh đập gây đau đớn về thể xác (3,8%), hoặc chịu ít nhất 1 trong 4 vấn đề nêu trên (13,8%), cao hơn các quốc gia khác như Úc (11,8%), Ai Len (11,1%), Thái Lan (13,1%)[14]. Bên cạnh đó, những tổn thất do bị xói mòn về văn hóa, lối sống, đạo đức và chất lượng giống nòi bởi lạm dụng rượu, bia gây ra là những gánh nặng xã hội nghiêm trọng không thể so sánh và rất khó lượng hóa.  
3. Lạm dụng rượu, bia gây gánh nặng kinh tế cho hộ gia đình và quốc gia
Chi phí kinh tế trực tiếp cho điều trị 6 loại bệnh ung thư phổ biến tại Việt Nam, trong đó có 5 bệnh có liên quan đến sử dụng rượu, bia (ung thư gan, ung thư đại trực tràng, ung thư khoang miệng, ung thư dạ dày, ung thư vú) lên tới 25.789 tỷ đồng, chiếm 0,22% tổng GDP năm 2012. Gánh nặng kinh tế cho việc điều trị các bệnh ung thư đổ dồn lên hộ gia đình (42,4%), bảo hiểm y tế (27,7%) và Chính phủ (17,1%)[15].
Theo Báo cáo Tổng quan Y tế 2015 (số liệu 2014, Bộ Y tế), Việt Nam chi bình quân tiêu thụ bia hơn 3 tỷ USD/năm (khoảng 1,8% GDP), bằng gần 3% thu ngân sách cả nước và cao gấp 4 lần mức đóng góp ngân sách của ngành sản xuất rượu, bia, nước giải khát hàng năm (trung bình 800 triệu USD/năm).
Sử dụng nhiều rượu bia gây ra gánh nặng kinh tế đối với cá nhân, gia đình và toàn xã hội do liên quan đến các phí tổn về chăm sóc sức khỏe, giảm hoặc mất năng suất lao động và giải quyết các hậu quả xã hội khác. Chi tiêu cho rượu bia lấy đi nguồn tài chính quan trọng ở các hộ gia đình nghèo và làm cho tình trạng đói nghèo thêm trầm trọng. Ở các hộ nghèo có dùng rượu, bia, khoản chi cho y tế và giáo dục chỉ bằng 48% và 60% so với hộ nghèo không có người uống rượu, bia. Nếu số tiền mua rượu, bia này dùng để mua sữa thì trẻ em ở các hộ nghèo sẽ được uống khoảng 122 cốc sữa/năm thay vì 1 cốc/năm[16].
4. Giá rẻ và sức mua gia tăng làm tăng nguy cơ lạm dụng rượu, bia
Năm 2014, người dân chỉ phải bỏ ra trung bình 18.455 đồng để mua 1 lít rượu trắng nội địa và 13.114 đồng để mua 1 lít bia hơi. Mức chi này chỉ bằng 1,6% và 1,2% lương cơ bản một tháng (lương cơ bản năm 2014 theo Nghị định số 66/2013/NĐ-CP là 1.150.000 đồng/tháng).
Từ 1998-2014, giá mua 1 lít rượu, bia liên tục giảm tính theo tỷ lệ phần trăm GDP bình quân đầu người. Năm 1998, tỷ lệ phần trăm GDP/người để mua 10 lít rượu Vodka Hà Nội, rượu vang nội và rượu trắng nội địa ứng là 8,2%; 5,9% và 1,6%. Nhưng đến 2014, tỷ lệ này giảm mạnh chỉ còn là 2,2%; 1,6%; và 0,4%. Mức giảm tương tự với mặt hàng bia. Điều này cho thấy, khả năng tiếp cận với rượu, bia về phương diện giá của người dân Việt Nam ngày càng tăng[17].
5. Truyền thông và kẽ hở pháp luật trong quảng cáo đồ uống có cồn
Quảng cáo rượu đã bị luật pháp cấm nhưng còn nhiều vi phạm và còn nhiều hành vi lách luật. Quảng cáo bia còn thả nổi vì chưa có bất kỳ chính sách nào để hạn chế quảng cáo bia. Điều tra của Đại học Y tế công cộng (2014) trên gần 700 điểm bán rượu, bia tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng cho thấy, quảng cáo rượu trên 15 độ mặc dù bị cấm, nhưng có tới 76% điểm bán có vi phạm ở khu vực bên trong nhà, và 8,2% điểm bán có vi phạm quảng cáo ngoài trời.
Đối với các sản phẩm rượu, bia và đồ uống có cồn dưới 15 độ, được quảng cáo như hàng hóa, dịch vụ bình thường, không có bất kỳ quy định hạn chế nào về đối tượng tiếp cận, nội dung, thời gian, không gian được phép quảng cáo. Báo chí và truyền thông đại chúng vẫn quảng cáo bia hằng ngày.
Năm 2014, Chính phủ đã ban hành “Chính sách quốc gia về Phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia và đồ uống có cồn khác” (Quyết định số 224/QĐ-TTg, ngày 12/2/2014) và thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về Phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia và đồ uống có cồn khác (Quyết định số 1081/QQD-TTg, 15/7/2015). Những chính sách này của Chính phủ là rất cần thiết, nhưng việc triển khai thực thi chính sách còn chậm và còn thiếu hành lang pháp lý. Hơn nữa, theo Hiến pháp năm 2013, việc hạn chế quyền con người, quyền công dân cần phải được hạn chế bằng luật. Vì vậy, việc cấm sử dụng rượu, bia trong một số trường hợp phải được quy định trong văn bản luật./.
 


*Viện Nghiên cứu Lập pháp.
[1] Tổ chức Y tế thế giới, Báo cáo toàn cầu về thực trạng sử dụng rượu, bia và sức khỏe năm 2014.
[2] Tổng cục Thống kê (2010a). Điều tra quốc gia vị thành niên và thanh niên Việt Nam vòng 2, 2010.
[3] Bộ Y tế, Điều tra các yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm 2010, 2015.
[4] Cục Y tế dự phòng, Điều tra sức khỏe học sinh năm 2013.
[5] Tổ chức Y tế thế giới, Báo cáo toàn cầu về thực trạng sử dụng rượu, bia và sức khỏe năm 2014.
[6] Tổ chức Y tế thế giới, Báo cáo toàn cầu về thực trạng sử dụng rượu, bia và sức khỏe năm 2014.
[7] Tổ chức Y tế thế giới, Báo cáo toàn cầu về thực trạng sử dụng rượu, bia và sức khỏe năm 2014.
[8] Tổ chức Y tế thế giới.
[9] Bộ Y tế, Báo cáo tổng quan ngành y tế năm 2014.
[10] WHO, Báo cáo toàn cầu về đồ uống có cồn và sức khỏe năm 2014.
[11] ThS. Hoàng Thị Mỹ Hạnh, Hậu quả của lạm dụng đồ uống có cồn, Tạp chí Chính sách Y tế số 13 (2014), tr. 12.
[12] WHO, Báo cáo toàn cầu về đồ uống có cồn và sức khỏe năm 2014.
[13] Tổng cục Thống kê, Điều tra quốc gia về bạo lực gia đình năm 2010.
[14] Khảo sát của WHO năm 2014 tại 4 quốc gia, trong đó có Việt Nam.
[15] Nguồn: Viện Nghiên cứu phòng, chống ung thư, Bệnh viện K.
[16] HealthBridge Việt Nam, 2010, Nghiên cứu Ảnh hưởng của sử dụng rượu bia đến đói nghèo và đặc điểm của các hộ gia đình sử dụng rượu bia thường xuyên tại Việt Nam.
[17] HealthBridge Việt Nam, phân tích từ số liệu của Tổng cục Thống kê về giá bán lẻ và CPI của các sản phẩm rượu, bia.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 24(328)-tháng 12/2016)