Tội phạm xâm hại tình dục trẻ em và vấn đề bảo vệ quyền trẻ em qua công tác xét xử ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên

01/11/2017

ThS.LỮ THỊ HẰNG

Thư ký Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

Tóm tắt: Bài viết đề cập đến việc bảo vệ quyền trẻ em trước sự xâm hại của loại tội phạm cụ thể là tội phạm xâm hại tình dục trẻ em ở địa bàn Miền Trung - Tây Nguyên thông qua kết quả xét xử, giải quyết của 12 Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố thuộc địa hạt tư pháp của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng năm 2016 - 2017. Tác giả phân tích một số nguyên nhân xảy ra tội phạm và đề xuất các biện pháp phòng chống tội phạm dưới góc độ bảo vệ quyền trẻ em.
Từ khóa: Luật trẻ em, quyền trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em
Abstract: This article deals with the protection of children's rights against the infringement of specific crimes of child sexual abuse in the Central Highlands through the trial and settlement results of 12 People's Courts of the provinces, city under the High Court of the People's Courts of Da Nang City in 2016 - 2017. Through this article, the author analyzes a number of causes of crime and proposes measures to prevent crimes under the protection of children's rights.
Keywords: Children Law, children rights, child sexual abuse
Untitled_351.jpg
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trước nguy cơ xâm hại của các loại tội phạm về tình dục
Điều 34 Công ước của Liên hiệp quốc (LHQ) về Quyền trẻ em năm 1989 quy định: “Các quốc gia thành viên cam kết bảo vệ trẻ em chống tất cả các hình thức bóc lột tình dục và lạm dụng tình dục. Vì mục đích này, các quốc gia thành viên phải đặc biệt thực hiện các biện pháp thích hợp ở cấp quốc gia, song phương và đa phương để ngăn ngừa: a) Việc xúi giục hay ép buộc trẻ em tham gia bất kỳ hoạt động tình dục trái pháp luật nào; b) Việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong mại dâm hay các hoạt động tình dục trái pháp luật khác; c) Việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong các cuộc biểu diễn hay tài liệu khiêu dâm”[1].
Như vậy, việc bảo vệ trẻ em trước nguy cơ xâm hại của các loại tội phạm về tình dục không chỉ giới hạn trong việc bị xâm hại bởi các hành vi tình dục cụ thể mà còn là phòng chống sự xâm hại của các hình thức văn hoá phẩm khiêu dâm. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế quốc tế, các hình thức truyền thông cũng không ngừng phát triển và trở thành công cụ hiệu quả trong các giao dịch thương mại điện tử cũng như thông tin điện tử. Tuy nhiên, sự phát triển nào cũng có mặt trái, nhất là nhu cầu giải trí của đại đa số người dân không ngừng tăng lên, do đó việc xuất hiện ngày càng nhiều văn hoá phẩm khiêu dâm cũng không là ngoại lệ. Vì vậy, Lời nói đầu Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về Quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em năm 2000 đã lo ngại rằng “ngày càng xuất hiện nhiều văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em trên Internet, các công nghệ đang phát triển khác”[2] và Hội nghị quốc tế về phòng chống văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em trên Internet tổ chức ở Việt Nam năm 1999 đã kêu gọi việc hình sự hoá trên toàn thế giới việc sản xuất, phân phối, xuất khẩu, chuyển giao, nhập khẩu, sở hữu có dụng ý, quảng cáo văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em; đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác và cộng tác chặt chẽ hơn nữa giữa các Chính phủ về công nghệ Internet”. Trong làn sóng thông tin, giải trí “đen” này, có một số nhóm trẻ em dễ bị tổn thương đặc biệt là trẻ em gái - những đối tượng rất dễ gặp nguy cơ bóc lột tình dục và thực tế chiếm tỉ lệ cao trong số những người bị bóc lột tình dục. Vì vậy, việc bảo vệ trẻ em, nhất là trẻ em gái trước nguy cơ xâm hại của tội phạm tình dục là vấn đề quan trọng hàng đầu của từng gia đình, nhà trường, xã hội, quốc gia và toàn thế giới.   
Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của LHQ về Quyền Trẻ em vào năm 1990 và Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về Quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em vào năm 2001. Điều đó thể hiện sự nhất quán trong việc thực thi pháp luật quốc gia và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại của các loại tội phạm tình dục ở Việt Nam.
Pháp luật Việt Nam cũng đã quy định cụ thể nhằm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trước nguy cơ xâm hại của các loại tội phạm tình dục như: coi hành vi dụ dỗ, dẫn dắt, chứa chấp, ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm, xâm hại tình dục trẻ em; lợi dụng, dụ dỗ, ép buộc trẻ em mua, bán, sử dụng văn hoá phẩm đồi truỵ, làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, tàng trữ văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em, sản xuất, kinh doanh đồ chơi, trò chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em là những hành vi bị nghiêm cấm[3]. Đồng thời, cũng quy định rõ trách nhiệm của gia đình, của Nhà nước và toàn xã hội trong việc ngăn chặn tội phạm xâm hại tình dục trẻ em và các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ trẻ em là nạn nhân của tội phạm xâm hại tình dục[4]. Cùng với việc phê chuẩn Công ước LHQ về Quyền trẻ em và Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về Quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em, pháp luật Việt Nam đã quy định các hành vi sau đây là tội phạm theo Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009): Hành vi hiếp dâm trẻ em (Điều 112), Hành vi cưỡng dâm trẻ em (Điều 114), Hành vi giao cấu với trẻ em (Điều 115), Hành vi dâm ô đối với trẻ em (Điều 116), Hành vi mua dâm người chưa thành niên (Điều 256). Theo BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), thì các hành vi được quy định là: Hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Cưỡng dâm người dưới 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145), Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147) và Mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329).
Các hành vi xâm hại tình dục trẻ em được quy định ở các điều luật nêu trên đều có khách thể trực tiếp là danh dự, nhân phẩm, sự phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần của trẻ em mà đối tượng là những người dưới 16 tuổi (đối với các hành vi hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em, dâm ô đối với trẻ em) và dưới 18 tuổi (đối với hành vi mua dâm người chưa thành niên).
Như vậy, pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế đã có những quy định cụ thể nhằm bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại của các loại tội phạm về tình dục. Điều này góp phần bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại của những loại tội phạm nguy hiểm này, đồng thời ngăn ngừa và hạn chế tác hại của tội phạm đối với sự phát triển bình thường về mọi mặt của trẻ em.
2. Tội phạm xâm hại tình dục trẻ em năm 2016 - 2017 ở các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên
TAND cấp cao tại Đà Nẵng được thành lập ngày 01/6/2015 theo Nghị quyết số 957/NQ-UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Theo đó, phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của TAND cấp cao tại Đà Nẵng gồm 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bao gồm: thành phố Đà Nẵng; các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk.
Theo kết quả báo cáo của TAND các tỉnh Miền Trung - Tây Nguyên năm 2016 và 2017[5], tình hình tội phạm có chiều hướng giảm ở một số tỉnh, thành phố nhưng ở một số nhóm tội, tính chất ngày càng phức tạp, điển hình như các nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu, nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Trong đó, tình trạng trẻ em bị xâm hại bởi các loại tội phạm có chiều hướng gia tăng hoặc/và bị xâm hại nhiều lần nhưng gia đình và nhà trường không nắm bắt được, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Từ ngày 01/10/2015 đến 30/9/2017[6], TAND các tỉnh, thành phố khu vực Miền Trung - Tây Nguyên đã thụ lý mới trên 70 [7] vụ án xâm hại tình dục trẻ em. Trong đó, các tỉnh khu vực Tây Nguyên chiếm tỷ lệ cao nhất như Đắk Lắk 23 vụ, Gia Lai 19 vụ, Phú Yên thụ lý tăng so với năm trước là 11 vụ. Tuy nhiên, công tác điều tra, truy tố và xét xử chưa phản ánh trung thực về tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn, bởi lẽ, việc tiếp cận thông tin liên quan đến tội phạm đều xuất phát từ sự tố cáo của gia đình nạn nhân. Nhiều trường hợp nạn nhân bị xâm hại nhưng gia đình nạn nhân không biết hoặc cố tình che giấu hoặc không xác định được chủ thể thực hiện tội phạm trên thực tế xảy ra lớn hơn nhiều lần số liệu thống kê thông qua việc truy tố và xét xử. Những vụ án này đều có đặc điểm chung là chủ thể trong các vụ án xâm hại tình dục trẻ em tại khu vực Miền Trung - Tây Nguyên thời gian vừa qua đều là người quen, hàng xóm (đối với tội Dâm ô đối với trẻ em)[8] của gia đình nạn nhân hoặc có mối quan hệ tình cảm, yêu đương đối với nạn nhân (đối với tội Giao cấu với trẻ em)[9]. Do đó, mức độ cảnh giác của gia đình nạn nhân đối với người phạm tội rất hạn chế, dẫn đến hậu quả đáng tiếc xảy ra đối với nạn nhân.
Tuy việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được chính quyền địa phương các cấp quan tâm sát sao, nhưng do đặc điểm là những tỉnh, thành phố có địa hình phức tạp (khu vực Tây Nguyên), dân cư tập trung ở một số khu vực nhất định, trình độ văn hóa, hiểu biết của dân cư không đồng đều nên việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em còn nhiều khó khăn, hạn chế. Các thành phố lớn như Đà Nẵng và các thành phố trực thuộc tỉnh tập trung số lượng lớn người dân ngoại tỉnh đến học tập, làm ăn, sinh sống nên công tác quản lý, tuyên truyền và giáo dục pháp luật chưa được thực hiện đồng bộ, hiệu quả. Hơn nữa, công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án xâm hại tình dục trẻ em cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm cần được khắc phục trong thời gian tới. Có thể khái quát nguyên nhân cơ bản xảy ra các vụ án xâm hại tình dục trẻ em ở khu vực Miền Trung - Tây Nguyên như sau:
- Nguyên nhân chủ quan từ phía người xâm hại: do chịu ảnh hưởng từ các văn hóa phẩm đồi trụy (như phim, ảnh, sách báo có nội dung không lành mạnh); do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, tha hóa; do nghiện sex; do trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết và thiếu tôn trọng pháp luật của người xâm hại (nhất là đồng bào dân tộc thiểu số). Một số trường hợp người xâm hại là người chưa đủ 18 tuổi nhưng không có sự quan tâm chăm sóc, giáo dục của cha mẹ, người lớn, nhà trường và xã hội.
- Nguyên nhân khách quan từ phía nạn nhân và gia đình nạn nhân: do sự chủ quan của gia đình nạn nhân khi phó mặc các cháu cho nhà trường mà không để ý đến sự phát triển tâm sinh lý của các cháu ở lứa tuổi dậy thì, hoặc chủ quan đối với những mối nguy hại ngay bên cạnh các cháu mà cha mẹ thiếu quan tâm, định hướng cho các cháu. Đối với nạn nhân trong các vụ án “Giao cấu với trẻ em”, các nạn nhân bắt đầu bước vào tuổi mới lớn, các cháu luôn cần có sự quan tâm, định hướng của gia đình nhưng do nhận thức chưa đầy đủ, do tâm lý e ngại, do điều kiện sống khó khăn… nên các bậc phụ huynh thường ít quan tâm, không trực tiếp trao đổi với các cháu về các nguy cơ có thể xảy ra. Các cháu có tâm lý muốn khám phá cơ thể mình và trong một số trường hợp, muốn khẳng định mình không chỉ bằng việc học hành thi cử mà khẳng định bằng cách có người yêu sớm. Trong các vụ án này, nạn nhân thường là người chủ động trong việc yêu cầu bị cáo quan hệ tình dục với mình, do tò mò, do muốn khẳng định mình hoặc do sự thôi thúc của bản năng... Các cháu thường dậy thì sớm, cơ thể phát triển tương đối hoàn chỉnh nhưng sự phát triển về nhận thức còn hạn chế. Một phần các cháu do tò mò nên vô hình trung đã bị lợi dụng mà không hay biết và trở thành nạn nhân của loại tội phạm nguy hiểm này. Do đó, việc giáo dục nhận thức cho các cháu là vô cùng quan trọng và các bậc cha mẹ phải chủ động trong việc giáo dục giới tính cho trẻ em từ khi các cháu còn nhỏ.
Đối với nạn nhân trong các vụ án “Dâm ô đối với trẻ em”, gia đình nạn nhân thường chủ quan đối với những mối nguy hại xung quanh các cháu. Thủ phạm có thể là người quen[10], hàng xóm[11] hay một số người mà ngay cả gia đình nạn nhân cũng không ngờ tới như những người có mối quan hệ ruột thịt hoặc có mối quan hệ nuôi dưỡng[12] (pháp luật hình sự quy định đây là tình tiết tăng nặng “có tính chất loạn luân”và tình tiết “Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh” trong một số điều luật của BLHS).
Ở địa bàn các tỉnh, thành phố khu vực Miền Trung - Tây Nguyên thời gian vừa qua chưa phát hiện và xử lý loại tội phạm buôn bán trẻ em nhằm mục đích bóc lột tình dục hoặc mục đích khác. Tuy nhiên việc phòng tránh là cần thiết nhằm đảm bảo để các bậc cha mẹ và trẻ em có những kiến thức nhất định nhằm đối phó với các loại tội phạm này.
3. Kiến nghị một số biện pháp bảo vệ trẻ em trước các loại tội phạm xâm hại tình dục
- Nâng cao nhận thức của các bậc làm cha mẹ trong gia đình: việc nâng cao nhận thức của cha mẹ đối với quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em là vô cùng quan trọng. Các bậc cha mẹ phải nắm vững các quy định của pháp luật đối với vấn đề này để có hướng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục con cái phù hợp. Song song đó, các bậc cha mẹ cần lưu ý những vấn đề sau:
Một là, cha mẹ phải quan tâm sâu sát đến con cái đang trong độ tuổi dậy thì, bởi đây là độ tuổi có nguy cơ cao trở thành nạn nhân trong các vụ án xâm hại tình dục trẻ em. Đồng thời cần hạn chế tối đa việc tạo ra những tình huống có thể đẩy con mình vào thế bị xâm hại như cho người lạ đến thuê nhà, đến chơi, ngủ qua đêm hoặc cho con cái tiếp xúc với người từ nơi khác đến mà mình không thể kiểm soát được. Có ý thức giáo dục con cái về nguy cơ xâm hại của loại tội phạm nguy hiểm này, tư vấn, hướng dẫn cho con tránh một số tình huống có thể dự liệu trước ngay khi con cái bắt đầu nhận thức được (khoảng 2 - 3 tuổi trẻ em đã có thể nhận thức được về các bộ phận trên cơ thể mình).
Hai là, khi con cái bị xâm hại, chính cha mẹ cần xoá bỏ tư tưởng đổ lỗi cho con cái vì lỗi ở đây hoàn toàn không phải của các cháu. Có những trường hợp, các cháu bị xâm hại suốt một thời gian dài nhưng không dám nói với cha mẹ vì sợ bị cha mẹ đánh, mắng. Các cháu sẽ bị khủng hoảng tâm lý do lo sợ cha mẹ phát hiện và sự đe doạ của tội phạm. Cha mẹ phải thực sự là bạn của con để có thể nắm bắt mọi tâm tư tình cảm cũng như những biểu hiện khác thường của con mình.
Ba là, cần có biện pháp bảo vệ con cái sau khi các cháu bị xâm hại vì lúc này tâm lý của các cháu thường bất ổn, hoảng sợ. Cần tránh cho các cháu khỏi dư luận cũng là một biện pháp quan trọng. Nếu cần thiết có thể đưa các cháu đến nơi sinh sống, học tập mới.
- Đề cao vai trò của nhà trường: giáo dục ý thức tôn trọng quyền trẻ em bao gồm các quyền cơ bản được đề cập trong Luật Trẻ em năm 2016 và phổ biến các quy định của pháp luật hình sự về các hành vi nguy hiểm cho xã hội và các ví dụ điển hình về tội phạm để các em tự biết cách bảo vệ mình trước các nguy cơ xâm hại. Đồng thời thực hiện các việc cơ bản như sau:
Một là, đưa bộ môn giáo dục giới tính vào chương trình giảng dạy ở mọi cấp độ để giúp các em học sinh có thể phân biệt được hành vi được phép và hành vi bị cấm đối với cơ thể các cháu. Kết hợp giáo dục trí óc và giáo dục thể chất cho trẻ em.
Hai là, có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình trong việc quản lý giờ giấc sinh hoạt, học tập của các cháu. Liên lạc với gia đình ngay khi các cháu có biểu hiện sao nhãng, trốn học hay đua đòi bạn bè hoặc có một số mối quan hệ mới với người khác giới.
- Vai trò của xã hội:
Một là, việc tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đến với mọi lứa tuổi, mọi đối tượng trong xã hội cũng như phổ biến, giáo dục pháp luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng như luật hình sự đến với mọi đối tượng trong xã hội là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc bảo về quyền trẻ em trước sự xâm hại của các loại tội phạm về tình dục. Do đó, đây được coi là biện pháp chủ chốt trong việc bảo vệ quyền trẻ em.
Hai là, cần có biện pháp quản lý, giáo dục đối với những đối tượng lang thang, không có nơi ở nhất định hoặc đối tượng di dân đến địa bàn vì đây là những đối tượng dễ sa ngã hoặc/và rất khó quản lý khi có hành vi vi phạm xảy ra.
Ba là, có biện pháp quản lý việc sản xuất, phân phối, xuất khẩu, chuyển giao, nhập khẩu, sở hữu có dụng ý, quảng cáo văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em và nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác quốc tế về công nghệ Internet. Ngăn cấm việc sản xuất và phổ biến các tài liệu, văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em.
4. Kết luận:
Việc thực thi pháp luật về quyền trẻ em trước sự xâm hại của các loại tội phạm về tình dục ở khu vực Miền Trung - Tây Nguyên nói riêng và trên cả nước nói chung những năm gần đây đã có bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, những biện pháp xử lý mới chỉ xử lý được phần ngọn của vấn đề bởi thực tế số lượng trẻ em bị xâm hại luôn cao hơn rất nhiều so với số lượng tội phạm đã bị đưa ra xét xử, giải quyết. Vì vậy công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và công tác tuyên truyền, giáo dục cần được quan tâm hàng đầu nhằm đảm bảo sự phát triển bình thường về thể chất và tâm sinh lý cho trẻ em ở mọi lứa tuổi.
Gia đình, nhà trường và xã hội giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ trẻ em trước nguy cơ xâm hại của các loại tội phạm về tình dục nói riêng và quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, nhân phẩm và danh dự; quyền được chăm sóc sức khoẻ nói chung. Do đó, cần nâng cao trình độ nhận thức của đại bộ phận người dân trong việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em./.
 

[1]Điều 34, Công ước của LHQ về Quyền trẻ em năm 1989.
[2] Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về Quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em, năm 2000
[3]Điều 7 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
[4]Điều 56 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
[5] Trích dẫn
[6] Năm công tác của TAND các cấp được tính từ ngày 01/10 của năm trước đến ngày 30/9 năm sau.
[7] Số liệu thống kê chưa chính thức.
[8] Hành vi được quy định tại BLHS năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009), nay là hành vi Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
[9] Hành vi được quy định tại BLHS năm 1999, nay là hành vi Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo BLHS năm 2015;
[10] Vụ Trần Huy và đồng bọn hiếp dâm cháu N.T.Q.N theo Bản án hình sự phúc thẩm số 133/2017/HSPT ngày 07/6/2017 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
[11]Vụ Phạm Văn Huy ở Đắk Lắk giết người và hiếp dâm cháu Đ.T.K.T theo Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2017/HSST ngày 27/4/2017 của TAND  tỉnh Đắk Lắk;
[12]Vụ A Toàn ở Kon Tum hiếp dâm và giao cấu với con riêng của vợ là cháu M.H theo Bản án hình sự phúc thẩm số 26/2016/HSPT ngày 30/12/2016 của  TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 22(350)-tháng 11/2017)